( Chu y: Co hang ngan bai viet tuong tu noi ve cuoc thao chay cua VNCH vao thang 4-75 do VC bien soan, chung chuoi rua, thoa ma linh mien Nam, chung vu cao toi ac cho nha cam quyen…Nhung bai viet loai nay duoc bon VC nam vung, tra hinh nguoi quoc gia, nguoi ti nan CS..dang tai tren nhieu trang bao Hai ngoai. Bao CANADA, UC CHAU MY,PHAP.. , Dong phuong, Chinh luan WA, saigon nho CA,… Bai cua Tu Gan…Voi nhieu tua de khac nhau nhu: Cac bo mat phan tuong VNCH, Cuoc thao chay 4-75..)
- Melvin R.Laird, cựu bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dưới thời Nixon, sau mấy chục năm im lặng mới lên tiếng gần đây. Ông nói rằng chiến tranh Việt
1- Chấm dứt can thiệp quân sự (8/1973).
2- Cấm can thiệp trở lại Việt
3- Cấm trả đũa nếu Hiệp định
4- Giảm quân viện từ 1 tỉ 4 xuống còn 700 triệu vào năm 1974.
5- Từ chối yêu cầu của Tổng thống Ford xin viện trợ khẩn cấp cho Việt
Cũng theo Laird, Tổng thống Ford đã bác bỏ thuyết Domino đã có từ 7/4/1954 dưới thời Tổng thống Eisenhower cho rằng hễ mất một nước sẽ mất luôn nhiều quốc gia khác mà người mình thường nói nôm na môi hở thì răng lạnh.
Vào ngày 10/3/2006 vừa qua hằng trăm chuyên viên, chính trị gia nghiên cứu về sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã tề tựu tham gia cuộc hội thảo tại thư viện Kennedy thành phố Boston, họ thảo luận đề tài "Chiến tranh Việt nam và các tổng thống Hoa kỳ". Các chuyên viên cho rằng đó là một cuộc chiến đầy những tai họa. Bà giám đốc thư viện nói các vị Tổng thống Hoa kỳ đã dìm nước Mỹ ngày càng lún sâu vào cuộc chiến tranh Việt Nam, họ tin rằng điều mình đang làm là phải nhưng đó chỉ là một sự liều lĩnh, theo bà một sử gia nói nó chỉ là một sự tính toán sai lầm về chính sách trong lịch sử đối ngoại của Hoa Kỳ. Một diễn giả sử gia trong buổi hội thảo nói có một vài cuộc chiến tranh là chính đáng, theo ông cuộc chiến tranh Việt Nam không chính đáng.
Trên đây là hai ý kiến trái ngược nhau, một bên đại diện là cựu bộ trưởng Laird cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam không thể coi là một sự sai lầm và ngược lại những người tham dự buổi hội thảo tại Boston cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là sai lầm. Cuộc chiến tranh ấy đã khiến Hoa kỳ phải chi tới mấy trăm tỉ đô la, 58,000 quân nhân thiệt mạng, đất nước bị xáo trộn về chính trị cũng như kinh tế. . chưa kể đất nước phải mang tiếng nhục bại trận. Theo chúng tôi biết thì tâm lý chung con người thường ích kỷ, họ chỉ nghĩ đến những cái "mất" và không để ý tới những cái "được". Tất cả những sự mất mát đó chỉ là cái giá mà họ phải trả để được bắt tay Mao xếnh xáng ngày 21/2/1972, muốn bắt tay xếnh xáng đâu có phải chuyện dễ. Điều mà chính phủ Hoa Kỳ mong ước bao lâu nay đã thành sự thật, họ đã chiêu hồi được Trung Quốc, đảng cướp hung tợn này không còn là mối đe dọa tài sản tính mạng của Hoa Kỳ nữa, nhưng sự chiêu hồi ấy phải trả một giá hơi cao.
Theo chúng tôi nghĩ các ngài chuyên viên, chính trị gia ấy chắc cũng phải thừa biết như vậy và sự giả vờ ngây thơ của họ cho thấy họ không thẳng thắn nhìn nhận sự thật. Chúng tôi nghĩ các vị Tổng thống Hoa Kỳ chắc hẳn không sai lầm chút nào khi dính líu vào cuộc chiến tranh Việt Nam vì các ngài là những nhà chính trị gia lỗi lạc, những bậc thầy chính trị của thế giới chẳng lẽ lại sai lầm như vậy sao? Người ta kêu ca những sự thiệt hại cuộc chiến tranh ấy đã gây ra cho đất nước họ, thế còn đất nước nạn nhân đã là bãi chiến trường của bom đạn, binh đao khói lửa thì sao? Người Mỹ nói rằng số bom ném tại Việt Nam gấp 3 lần số bom ném tại Âu châu trong suốt thời Đệ nhị thế chiến, họ chỉ chú ý tới số tiền chi phí khổng lồ về số lượng bom đã ném xuống nhưng lại không để ý tới những nhân mạng, tài sản do những trái bom ấy gây nên.
Từ Thế chiến thứ hai đến nay ai cũng biết chỉ có thân phận mấy anh nhược tiểu là chịu thiệt thòi, làm món hàng cho các cường quốc mua qua bán lại, còn các siêu cường thì mấy khi chịu thiệt. Nay nhiều người cho rằng cuộc chiến Iraq là một sự sai lầm, nhưng nếu nhìn vào con số thống kê thì thấy Iraq là nước cung cấp dầu cho Hoa Kỳ nhiều nhất (29%), thứ nhì là Ecuator ( 19%). . các nước khác ít lắm chỉ năm, bẩy phần trăm thôi. Nhìn vào cái "sự thật phũ phàng" ấy thì không thể kết luận là chiến tranh
Sự thật không phải Mỹ can thiệp vào Đông Dương từ những năm 1964, 65 mà thật ra từ tháng 10/1950 khi Trung Cộng chuyển vũ khí ồ ạt giúp Việt Minh, người Mỹ đã vội viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la, hàng không mẫu hạm Mỹ đã chở tới Sài Gòn 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Chính phủ và Quân đội Quốc Gia Việt
Ngay khi vừa chiếm xong toàn cõi lục địa, Mao vội giúp đỡ và xúi dục Bắc Triều Tiên xâm lăng miền Nam năm 1950 khiến cho Mỹ phải hốt hoảng lấy danh nghĩa Liên Hiệp Quốc để nhẩy vào ngăn chặn và đã phải dùng biển lửa để chống lại chiến thuật biển người của Lâm Bưu. Mỹ bắt đầu ghê sợ Trung Cộng từ đấy, một khối 500 triệu người hung hãn, đói khát, hiếu chiến…. lại căm thù Hoa Kỳ và Tây phương ra mặt. Chiếm được toàn cõi Trung Hoa, Mao thừa nhận Hồ, rồi Hồ thừa nhận Mao và được viện trợ vũ khí đạn dược ồ ạt từ đất Tầu chuyển sang, ấy cũng là lúc Hoa Kỳ thấy nguy cơ Cộng Sản đang lan tràn xuống Đông Nam Á theo kiểu tầm ăn dâu và cương quyết ngăn chận đến cùng.
Năm 1954 Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ phải ký hiệp Định Genève chia đôi đất nước Việt
Mặc dù Trung Cộng ngày càng chống đối Nga Sô nhưng vẫn coi Mỹ là kẻ thù số một và thề quyết tâm đánh Mỹ. Năm 1965 Trung Cộng giật dây đảo chánh bất thành tại Nam Dương khiến cho Hoa Kỳ lại càng lo sợ hơn. Tầu đỏ nay đã trở thành cơn ác mộng đối với Hoa Kỳ. Sau khi hất cẳng Pháp tại miền Nam Việt Nam 1955, người Mỹ dựng lên chính phủ Ngô đình Diệm và yểm trợ hết mình, tình hữu nghị hai bên vô cùng khít nhưng chỉ được chừng bốn năm. Khoảng 1960 trở đi hai bên bắt đầu chia rẽ trầm trọng, Cộng Sản ngày càng gia tăng áp lực tại miền Nam, chúng đã đánh tới cấp trung đoàn, Mỹ sợ miền Nam sắp mất tới nơi bèn đề nghị đưa quân vào bình định nhưng ông Diệm một mực bác bỏ vì muốn giữ chủ quyền. Mỹ thấy chính phủ miền
Mỹ tăng viện trợ quân sự cho miền Nam từ 1964 trở đi, năm 1965 chính thức đổ quân vào Miền Nam khoảng 180,000 người, năm 1966 lên 380,000 người, năm 1967 lên 480,000 người, năm 1968 lên tới 536,000 người đó là đỉnh cao nhất. Các cuộc biểu tình chống chiến tranh lúc ấy đã lan rộng trên đất Mỹ khi số lính Mỹ ủm củ tỉ tại Việt
Từ 1965 đến 1968 cuộc chiến tranh cù cưa không dứt khoát, người ta đồn tư bản Mỹ buộc chính phủ của họ kéo dài chiến tranh để bán vũ khí, nhưng cũng có thể họ trì hoãn để mặc cả đi đêm với khối Cộng nhất là Trung Quốc. Tháng 4/1969 tướng Wesmoreland công bố bản phúc trình về Việt Nam cho biết nếu Mỹ không vào Việt Nam 1965 thì đã mất trong 6 tháng, ông chỉ trích chính sách hạn chế chiến tranh của Johnson không cho đánh qua Mên, Lào nên đã bỏ lỡ cơ hội chiến thắng.
Phong trào phản chiến ngày càng lên cao, Nixon nhậm chức Tổng thống đầu 1969 tuyên bố sẽ rút quân trong vòng mấy năm, thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh, hòa bình trong danh dự. Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1970 Quân đội Việt Nam Cộng Hoà được Mỹ giúp đỡ và khuyến khích hành quân sang Mên đánh Cộng Sản đã thành công vẻ vang, nhưng đầu năm sau hành quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào không thành công, ta bị thiệt hại về nhân mạng và vũ khí. Phong trào phản chiến tại Mỹ càng lên cao dữ dội vì chính phủ mới vẫn tiếp tục leo thang chiến tranh. Tháng 5 /1970 trong một cuộc biểu tình tại trường đại học Kent, Ohio quân đội đã bắn chết 4 sinh viên, làm bị thương 10 người khác khiến cho phong trào chống chiến tranh lên cao gấp bội lần những năm trước.
Nixon bắt đầu cho rút quân từ giữa 1969 cho tới hết năm 1970 rút khoảng 300,000 quân . . đến 1972 chỉ con trên 70,000 người. Chính phủ Mỹ đồng thời thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, nâng tổng số quân đội miền Nam từ 600,000 và 700,000 trong những năm 1965, 1966 lên tới 940,000 giữa năm 1969. Hoa kỳ rút quân thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh là đã nghĩ tới chuyện bỏ Việt Nam, họ chỉ chờ cơ hội bắt tay được với Trung Quốc là thực hiện kế hoạch "vắt chanh bỏ vỏ" nhưng người dân miền Nam ngây thơ thật thà không ai ngờ tới. Trong khi giúp miền
Năm 1969 chúng tôi có được nghe một anh bộ đội người cùng làng ra hồi chánh , anh ta nói " Mỹ nó muốn chiêu hồi Trung Quốc đấy chứ cái anh Bắc Việt thì nghĩa lý gì". Lời anh ta nói thật là linh ứng, tháng 2/1972 tại Bắc kinh Tổng thống Đế quốc bắt tay được Mao Chủ tịt. Họ mua bán với nhau trên xương máu của nhân dân và binh lính cả hai miền Nam Bắc, Nixon tươi cười mãn nguyện, cơn ác mộng con hổ đói Trung quốc không còn ám ảnh Hoa kỳ nữa. Hồi ấy người dân miền Nam ai nấy vui mừng hớn hở tưởng như "hoà bình sắp tới nơi rồi" nhưng thực ra "sắp chết tới nơi" mà không ai hay biết ngay cả Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu, tháng 10 năm 1973 ông đã cho sửa Hiến Pháp để ra ứng cử thêm một lần nửa! thật là một truyện diễu.
Cuối tháng 3/1972 Bắc Việt đưa 5 sư đoàn với 200 xe tăng, 3 trung đoàn pháo ồ ạt tấn công vùng giới tuyến chia làm hai mũi: 3 sư đoàn vượt sông Bến Hải đánh vào Quảng Trị, 2 sư đoàn từ phía tây tiến về Huế. Mấy ngày sau ba sư đoàn Cộng Sản 5, 7, 9 cùng 200 chiến xa tiến đánh Bình Long, ngoài ra sư đoàn 320 tiến đánh Kontum và sư đoàn 3 đánh Bình Định. Tổng cộng 10 sư đoàn Bắc Việt đánh lớn trong mùa hè đỏ lửa 1972 để thêm sức mạnh tại bàn hội nghị. Tại quân khu 3 các cuộc tấn công vào thị xã An lộc của Bắc Việt từ 10/5 cho tới cuối tháng 5 bị đẩy lui, hằng trăm xe tăng bị bắn cháy, đến ngày 12/6 An Lộc coi như hoàn toàn được giải toả. Tại vùng giới tuyến tháng 5 tướng Ngô quang Trưởng thay thế Hoàng Xuân Lãm và bắt phản công tái chiếm Quảng Trị từ 28/6. Khoảng một tháng sau đại quân ta cắm cờ trên cổ thành Quảng Trị, giữa tháng 8 dứt điểm cổ thành, ngày 16/9 cuộc chiến đẫm máu coi như chấm dứt, 3 sư đoàn Việt Nam Cộng Hoà đã đẩy lui được 6 sư đoàn Bắc Việt. Trong chiến dịch này Cộng quân thiệt hại khoảng 100,000 người (cũng có tài liệu nói 70,000 người), gấp đôi tổn thất của quân đội miền
Người Mỹ cho rằng chiến thắng trong trận mùa hè đỏ lửa một phần do sự yểm trợ hùng hậu của không lực Mỹ, chính ông Cao văn Viên, Tổng tham mưu trưởng cũng đã xác nhận "Cuộc công kích của địch quân năm 1972 đã cho thấy nhược điểm của tiến trình Việt
Như thế năm 1972 lực lượng Việt Nam Cộng Hoà không được cân bằng so với Bắc Việt, nó chỉ cân bằng khi có sự yểm trợ của Không quân Mỹ, tại miền
Sau ngày ký hiệp định Paris, năm 1973 tình hình tiếp vận của miền Nam vô cùng thiếu hụt , một số lớn săng dầu đạn dược đã được dốc vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, quân viện bị cắt giảm dần dần từ 2 tỉ 1 năm 1973 còn 1 tỉ 4 năm 1974 và 700 triệu năm 1975. Theo tiết lộ sau này của Bộ Tổng tham mưu hậu quả của giảm quân viện là không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay, giảm số giờ bay yểm trợ huấn luyện 50%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Các hoạt động hải quân cũng cắt giảm 50%, 600 tầu chiến các loạinằm ụ. Đạn dược chỉ đủ dùng cho đến tháng 6/1975.
So sánh với tình hình năm 1972 chúng ta sẽ thấy: Trong trận mùa hè đỏ lửa, Bắc Việt đã đưa vào trận đánh tổng cộng 10 sư đoàn, ta có đủ đạn dược săng dầu để chiến đấu lại được không quân Mỹ giúp đỡ về vận chuyển và oanh tạc. Sang năm 1975, săng dầu đạn dược thiếu thốn, không được B52 yểm trợ. Lực lượng địch lúc bắt đầu trận đánh khoảng 17 sư đoàn, chưa kể 3 sư đoàn tổng trừ bị thuộc quân đoàn 1 ở phía trên Bến Hải, khi ta mất vùng 1 và 2 , Bắc việt đưa nốt 3 sư đoàn vào Nam nâng tổng số lên 20 sư đoàn . Vũ khí đạn dược của địch năm 1975 gấp 3 lần 1972 theo tiết lộ của báo Nhân Dân năm 1976 nhân ngày kỷ niệm chiến thắng 30/4.
Chúng ta hãy lập bảng so sánh như sau.
Năm 1972:
- Bắc Việt đưa vào trận địa 10 sư đoàn
- Miền Nam có đầy đủ tiếp liệu đạn dược.
- Có yểm trợ của không lực Mỹ.
Năm 1975:
- Lực lượng Bắc Việt lên tới 20 sư đoàn, gấp đôi năm 1972.
- Vũ khí đạn dược của Bắc Việt gấp 3 lần năm 1972.
- Miền Nam thiếu thốn đạn dược nhiên liệu.
- Không được phi cơ Mỹ yểm trợ oanh tạc và vận chuyển.
Nhìn sơ ta cũng đủ thấy tình hình miền
Trong khi địch có khá đầy đủ tin tức tình báo về miền
Sư bố trí lực lượng của miền
Quân khu 1 để 5 sư đoàn (sư đoàn 1, 2, 3, Dù và Thủy quân lục chiến), 4 liên đoàn Biệt động quân, 418 khẩu pháo, 449 xe tăng, 96 máy bay chiến đấu.
Quân khu 2 để 2 sư đoàn (sư đoàn 22 và 23), 7 liên đoàn biệt động quân, 382 khẩu pháo, 477 xe tăng thiết giáp, 138 máy bay chiến đấu.
Quân khu 3 để 3 sư đoàn (sư đoàn 5, 18, 25), 7 liên đoàn biệt động quân, 376 khẩu pháo, 655 xe tăng thiết giáp, 250 máy bay chiến đấu.
Quân khu Bốn để 3 sư đoàn (sư đoàn 7, 9, 21), 380 khẩu pháo, 490 xe tăng, 72 máy bay chiến đấu, 580 tầu xuồng các loại.
Đã suy yếu vì thiếu tiếp liệu, ta lại đánh giá sai lực lượng địch nên đã bố trí các quân khu sai như trên. Cho tới 1975 ta vẫn không thay đổi sự bố trí lực lượng đã có từ trước cho phù hợp với tình hình mới. Lực lượng địch như đã nói ở trên tổng cộng là 20 sư đoàn, với số xe tăng thiết giáp ước lượng không chính xác khoảng 700 chiếc và700 khẩu pháo. Một nhà báo tây phương nói hai bên xem như ngang nhau vào lúc đầu của tấn thảm kịch. Năm 1975 Việt Nam Cộng Hoà có trên một triệu quân, 40% là chủ lực chính qui, 50% là địa phương quân, còn lại hải quân, không quân, cảnh sát. Lính nhà nghề chỉ có 13 sư đoàn và 15 liên đoàn biệt động quân , mỗi liên đoàn khoảng trên 2,000 người. Về mặt số lượng xe tăng và pháo của địch không bằng ta nhưng về mặt phẩm thì có phần hơn, thiết giáp miền Nam gồm M-48, M-41, M-113, trong đó chỉ có M-48 là tương đương với T-54 của Bắc Việt, pháo binh địch loại 130 ly có tầm viễn xạ tối đa là 30 cây số trong khi đại bác 105 ly, 155 ly của ta chỉ được 11 và 15 cây số, sau này được viện trợ thêm 175 ly có tầm bắn xa 25 cây số. Sự thực lực lượng hai bên không cân bằng vì miền
Quân khu 2 gồm 13 tỉnh mà chỉ có 2 sư đoàn trấn giữ, lực lượng bị phân tán mỏng lại là nơi địch chủ trương tấn công toàn diện, Bắc Việt tung vào trận địa này 5 sư đoàn tổng cộng gần 80,000 người. Bắc Việt bất ngờ đưa ba sư đoàn tấn công Ban mê thuột ngày 11/3, năm ngày sau 16/3/1975, Quốc hội Mỹ cắt viện trợ 300 triệu đô la quân viện bổ túc cho Việt Nam như thế ta chỉ còn đạn đủ đánh trong vòng vài tháng, hôm sau 17/3 Ban Mê Thuột hoàn toàn mất. Từ ngày 11/3 tại dinh Độc Lập tướng Thiệu triệu tập phiên họp gồm các tướng Viên, Khiêm, Quang cho biết phải rút quân bỏ vùng 1 vùng 2 về bảo vệ vùng 3 và vùng 4. Kontum, Pleiku bị áp lực nặng, tướng Phú tư lệnh quân khu 2 bay về Cam ranh họp với các tướng Thiệu, Khiêm, Viên, Quang để bàn kế hoạch rút lui Pleiku theo đường số 7 về Tuy Hoà.
Cuộc triệt thoái bắt đầu từ 16/3 đến 19/3, ngày đầu nhờ yếu tố bất ngờ nên đoàn lữ hành ra đi êm xuôi, hôm sau dân chúng ùa theo, Bắc việt chớp thời cơ chận đánh, pháo kích tơi bời, khoảng 5,000 quân vượt đường máu tới Tuy Hoà, cuộc triệt thoái không có kế hoạch đầy đủ, cấp trên nhiều người bỏ đơn vị chạy trước, kỷ luật hỗn tạp, kẻ xấu lợi dụng bắn phá giết chóc. . Cuộc triệt thoái trên đường số 7 đã đi vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 1950 khi quân Pháp triệt thoái khỏi vùng biên giới Việt Hoa đã bị Việt Minh chận đánh tan tành, được coi như một thảm bại lớn nhất trong cuộc chiến tranh tại miền Nam nước Việt từ trước đến nay.
Tướng Cao Văn Viên cho rằng ít nhất 75% các lực lượng chiến đấu của quân đoàn 2 đã bị tiêu diệt, 60,000 chủ lực quân khi về đến Tuy hoà chỉ còn lại khoảng 20,000, năm liên đoàn biệt động quân 7,000 người chỉ còn 900 người, 100 xe tăng các loại chỉ còn 13 cái M-113, trong số 400,000 dân cao nguyên chạy loạn chỉ có 100,000 người tới được Tuy Hoà. Tổng số vũ khí đạn dược trị giá 250 triệu đô la lọt vào tay Cộng quân. Ít ra cũng có tới 50,000 người thiệt mạng, cuộc triệt thoái mang lại hậu quả hết sức tai hại, nó đã kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ miền
Miền
Vùng 1 và 2 bị mất trong chớp mắt khiến cho tinh thần binh sĩ suy sụp nhanh chóng, điều đáng nói là trong khi tinh thần chiến đấu của binh sĩ còn khá cao, thay vì tăng viện thêm tướng Thiệu lại cho lệnh rút bỏ cả hai quân khu khiến cho dân quân vô cùng hoang mang, cuộc di tản diễn ra trong cảnh hỗn loạn, đạp lên đầu nhau mà chạy, bắn giết nhau tìm đường chạy coi như đã dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi. Tất cả vũ khí đạn dược, quân trang, xe tăng đại bác . . tại hai vùng hầu như mất hết, một phần lớn đã lọt vào tay Cộng quân, đúng là giáo vào tay giặc. Năm 1976, Cộng Sản tiết lộ trên báo chí chúng đã lấy được rất nhiều chiến lợi phẩm tại vùng 1 và 2 nào xe cộ, đại bác, thiết giáp. . để trang bị thêm, đạo quân của địch bỗng nhiên tăng lên gấp bội. Như đã nói ở trên riêng cuộc lui binh tại quân khu 2 cũng đã có khoảng 50,000 người thiệt mạng, cuộc rút lui hỗn loạn tại quân khu 1 dưới những trận mưa pháo của địch nhất là tại Đà Nẵng còn thiệt hại nhiều hơn nữa, trong toàn bộ cuộc di tản vùng 1 và 2 có tới hằng trăm nghìn người bị chết oan.
Thực hiện xong kế hoạch rút quân tại vùng 1 và 2 coi như tướng Thiệu đã dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi. Sau khi vùng 1 và 2 lọt vào tay Cộng quân, phần còn lại của miền Nam coi như sẽ mất trong giây lát, đạn dược đã thiếu nay lại càng thiếu hơn vì các kho đạn miền Trung mất hết. Tại Sài Gòn các ông to bà lớn đã chuẩn bị kế hoạch "tẩu vi thượng sách" y như năm 1949 tại Nam Kinh, Trung Hoa các ông bộ trưởng, tướng tá đã lên máy bay ra đảo Đài Loan.
Sài Gòn sắp chết tới nơi mà chính phủ Thiệu còn khẩn khoản xin Mỹ viện trợ khẩn cấp 300 triệu, theo ông Nguyễn tiến Hưng, vào giờ thứ hai mươi năm tướng Thiệu còn tính việc lấy ngoại tệ trong ngân hàng để đi mua đạn, thật là diễu hết chỗ nói. Ngày 21/4 ông Thiệu từ chức tổng thống, tuyên bố Hoa kỳ bỏ rơi đồng minh, từ đó đến nay nhiều người Việt đổ lỗi cho Mỹ đã bỏ rơi đồng minh năm 1975. Người Mỹ, điển hình là đương kim Tổng thống và bộ trưởng quốc phòng lại chỉ trích quân đội Việt Nam Cộng Hoà trước đây đã không chịu đánh. Nhiều chính khách Hoa kỳ lại đổ lỗi cho miền Nam Việt
Như chúng tôi đã trình bầy ở trên, Quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự khiến cho quân đội miền Nam lâm vào tình trạng ngặt nghèo kiệt quệ, một ông tướng Pháp nói đó là bức tử Việt nam. Chính người dân Mỹ, nhóm biểu tình phản chiến đã lên kế hoạch "vắt chanh bỏ vỏ", mặc dù không nói ra nhưng họ cho rằng đã "huề" với Trung Hoa đỏ rồi thì không còn lý do gì để giữ miền
Cho tới nay ít ra đã có người biết xấu hổ vì cái trò vắt chanh bỏ vỏ.
(Sau day la thu doan cua tac gia: Cang chuoi rua, thoa ma, vu cao, boi nho… che do VNCH cang nhieu thi nguoi dan cang thay VNCH khong co ly tuong chan chinh. Cang to ve chien thang cua bon giac Cong thi nguoi dan co them cam tinh. Neu doc gia khong suy nghi sau sac se bi lua bip vao ma tran CS)
Bộ trưởng tư pháp Mỹ R Kennedy nói Việt nam phạm vào rất nhiều sai lầm, trước mắt như chúng ta đã thấy ở trên, trong khi đạn dược thiếu hụt, tướng Thiệu lại sai lầm rút bỏ quân khu 1 và 2 đưa miền Trung vào chỗ thảm bại mất hết vũ khí đạn dược, chết bao nhiêu dân, quân, binh lính khiến cho tinh thần suy sụp ghê gớm đưa miền Nam xuống vực thẳm. Những người chạy lọan từ miền Trung vào
Thật vậy, nhiều ông tỉnh trưởng vét tiền trong ngân khố chạy trước, điều đáng tiếc là trong khi tinh thần binh sĩ còn cao, cấp lớn hèn nhát ích kỷ đã giúp cho sự sụp đổ của miền
Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng người dân thờ ơ không chịu giúp đỡ chính phủ, nhưng theo chúng tôi nghĩ vì chế độ Thiệu đã thối nát quá xá rồi, hẳn là ai cũng đều biết cả, nên người dân quá chán ngán không còn thiết tha gì đến, họ cũng chỉ lo chạy tháo thân mặc cho nó sụp đổ tan tành. Những người có cảm tình với ông Thiệu cho rằng nguyên do tấn thảm kịch tại tình thế ngặt nghèo như thiếu đạn dược, xăng dầu, nhưng một ông Tổng thống phải là người thao lược, mưu trí cao để có thể chuyển bại thành thắng, còn nếu không thì ai cũng có thể làm Tổng thống được.
Sau 30/4/1975 người ta ước lượng Cộng quân đã chiếm được 1,100 phi cơ các loại, hằng trăm tầu các loại của Hải quân, 300 xe tăng M-41, 250 xe M-48; 1,000 đại bác 105 mm, 300 đại bác 155mm và 175mm; 800,000 súng cá nhân M-16, 15,000 đại liên; 500 trực thăng; 130,000 tấn đạn dược. . tất cả trị giá hằng tỉ Mỹ kim.
Hậu quả của tấn thảm kịch như ta thấy đã khiến cho hằng trăm nghìn người chết oan, hằng trăm nghìn người bị tù đầy giam giữ lâu dài, vài năm sau có tới mấy trăm nghìn người bỏ xác giữa biển khơi trên đường tị nạn. Cuộc chiến tranh 1975 đã chấm dứt từ mấy chục năm qua nhưng nó vẫn in sâu trong tâm khảm người Việt nhất là đám tị nạn lưu vong. Bây giờ không phải lúc chúng ta ngồi oán trách đồng minh bỏ rơi miền Nam, ta phải tự trách mình đã không bảo được nhau, đã biến thành những quân tốt cho người ta xử dụng, đã để cho họ mua bán với nhau trên xương máu của hằng triệu binh lính cả hai miền Nam Bắc, đã biến đất nước thành bãi chiến trường và nơi thử vũ khí của khoa học quốc phòng.
Cuối cùng, những kẻ đã gây lên cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn sẽ đời đời đắc tội trước non sông và lịch sử.
Trọng Đạt
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Cao Thế Dung : Việt
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt
Đoàn Thêm: 1965, Việc Từng Ngày.
Đoàn Thêm: 1966, Việc Từng Ngày.
Đoàn Thêm: 1969, Việc Từng Ngày.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt:
Văn Tiến Dũng : Đại Thắng Mùa Xuân.
Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn.
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975.
The World Almanac Of The
VIET CONG NEM LUU DAN VAO HOC SINH MIEN
Nhân Ngày Quốc Hận 30/4: Tường Thuật Về Vụ Thảm Sát Tại Sân Vận Động Qui Nhơn
(Trích từ ký sự về chuyến đi của vợ chồng tác giả dọc theo Đường mòn Hồ chí Minh "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây")
Trong suốt 15 năm dậy hoc tại thành phố ven biển này, một kỉ niệm mà tôi không bao giờ quên, một cảnh tượng đã ám ảnh tôi suốt cuộc đời, đó là vụ Việt Cộng ném lựu đạn giết chết và làm bị thương hơn 100 em học sinh và giáo chức tại sân vận động Thị xã Qui Nhơn đêm 9 tháng Giêng 1972.
VIET CONG THAM SAT NGUOI MIEN
Tại Phan Thiết, sau ngày 1-5-1975, VC đã sát hại một số lớn Quân, Cán, Chính để trả thù. Ngoài một số anh em bị hạ sát ngay, khi kẹt lai, từ 19 tới 30/4/1975, đã có không biết bao nhiêu người khác, đã gục ngã trước đạn súng và lòng thù hận sắt máu cũa giặc sau ngày 1-5-1975. Giờ đây, qua ba mươi mốt năm trầm thống hờn hận, dù đã vật đổi sao dời nhưng những người còn sống, một thời là nạn nhân hay nhân chứng, gia đình hoặc đồng bào địa phương, làm sao có thể quên được những hình ảnh dã man tàn khốc, mà họ đã chứng kiến được, khi VC BT đã vô lương vô nhân đạo, bắn giết những kẻ ngả ngựa sa cơ..
- Dương Đàng (Đoàn trưởng CB/XDNT), Đại Uý Lê Văn Trò, DDT. Đại Đội 206 Thám Sát/BT, khi hai người từ Sài Gòn về trình diện và cả hai đã bị bắt ngay sau đó, đem bắn chết tại Xóm Mía (Tân Bình). Cho tới mấy hôm sau, nhờ các em mục đồng phác giác được, thân nhân mới biết chồng mình đã bị giặc thảm sát và dập xác dưới suối.
- Xã Trưởng Xã Bình Mỹ Thuận (Thiện Giáo) Trương Văn Bi nguyên Đoàn trưởng CB/XDNT, cùng với 3 viên chức Xã Ấp, bị bắt và VC bắn chết trên đường áp giải, tại Ngã Ba Ông Kỵ, nơi phân nhánh thiết lộ Mường Mán-Ma Lâm-Phan Thiết. Châu Ngọc Cơ, Xã Trưởng Tân Phú Xuân, bị bắt và thủ tiêu mất xác. Nguyễn Văn Bảy (Bảy Đen), Cảnh Sát đặc biệt Tân Phú Xuân, sau khi bàn giao súng đạn, bị kéo ra bắn chết.
-Trung Đội NQ Xã Lại An và ấp trưởng, phó gồm 14 người, được lệnh đi cải tạo. Đêm tối, VC bảo xuống hầm ngủ và bị quăng lưu đạn xuống giết hết.
- Cảnh sát đặc biệt Phan Lý Chàm Nguyễn Thìn, bị bắn chết tại Động Thái An.
- Xã Trưởng Dược (Lương Sơn), Phúc (Đại đội phó Chủ lực VC hồi chánh trước 1975), Lê Hai (Cuộc trưởng Cảnh sát Long Hiệp). Cả ba bị giam tại Lao Xá, nửa đêm xử tử ở động giá. Trung sĩ I Trim, Phòng 2/TK/BT, bị bắn chết trước nhà, ở ga xe lửa Phan Thiết. Thượng sĩ Nguyễn Văn Đức, Phòng 2/TK/BT, bị giam ở Phòng 13, trại 1 Lao Xá Phan Thiết, nửa đêm bị thắt cổ chết bằng giây cột mùng. Xã trưởng Phú Hội là Nguyễn Văn Thơ, chết trong Trại Xóm Mía khi bị giam.
- Giáo sư Nguyễn Xuân Quang (ba cô Nguyễn Xuân Anh-GS/PBC/PT), chủ tịch Đảng Dân Chủ tỉnh BT, năm 1980 chết trong cải tạo Huy Khiêm ở Tánh Linh (Bình Tuy). Tại trại Kà Tót, nhiều sĩ quan chết, trong số này Trung Úy Nguyễn Văn Nhị (Phan Chi Khu trưởng Phước Thiện Xuân), Nguyễn Văn Tân, Đoàn Hửu Bính., Đại Uý Tôn Thất Ái..Thiếu Tá Trịnh Vĩnh Bình, TDT 275/DPQ/BT (Chồng Trương Đức Nghi), chết trong trại giam Hoàng Liên Sơn, biên giới Hoa-Việt.
- Nhiều người mãn tù về nhà chết, trong số có Trung Uý Pháo Binh Nguyễn Văn Thanh, Tỉnh Đoàn Phó BC/XDNT Lê Minh Hải, Phùng Bửu Hưng (Quận Đoàn trưởng CB/XDNT Hải Long), Đỗ Quế (Xã Đoàn Trưởng CB/XDNT), Nguyễn Mẫn (Chù tịch Xã Phước Thiện Xuân), Nguyễn Thông (Chủ tịch Xã Phú Long), Nguyễn Đồng (Trưởng Ấp Phan Rí Cửa), Trung Uý Tăng Văn Đồng (Trưởng Ban 5 Quận Hòa Đa), Nguyễn Văn Bường (Cảnh Sát Hải Long)
- Huỳnh Đức, Chủ hãng nước đá, bị tịch biên gia sản khi đánh tư bản, bị bắt đi học tập và chết.
Xóm Cồn
Tháng 4-2006
MƯỜNG GIANG
No comments:
Post a Comment