Wednesday, March 21, 2007

Kêu gọi "giải thể chế độ Cộng Sản Việt Nam ác ôn"

Hòa Thượng Thích Chánh Lạc

thuộc Viện Hóa Ðạo II kêu gọi

"giải thể chế độ Cộng Sản Việt Nam ác ôn"



Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan


Hòa Thượng Thích Chánh Lạc thuộc Viện Hóa Ðạo II kêu gọi "giải thể chế độ CSVN ác ôn"

DENVER, COLORADO ? 1/07/2001



GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ

VIETNAMESE AMERICAN UNIFIED BUDDHIST CONGRESS IN THE UNITED STATES OF AMERICA

VĂN PHÒNG II - VIỆN HÓA ÐẠO

TỔNG VỤ HOẰNG PHÁP



LỜI PHÁT BIỂU CỦA HÒA THƯỠNG THÍCH CHÁNH LẠC TRONG ÐÊM THẮP NẾN CẦU NGUYỆN CHO TỰ DO TÔN GIÁO TẠI VIỆT NAM, NGÀY 30-6-2001, Ở DENVER, COLORADO DO BAN ÐẠI DIỆN CÐVN VÀ CÁC ÐOÀN THỂ TỔ CHỨC.

Kính thưa Qúi Quan khách Việt Mỹ và Ðồng hương.

Kính thưa Qúi vị,



Trong quá khứ, quê hương Việt nam chúng ta đều phải trải qua 2 thời kỳ Bắc thuộc, kế đến Pháp thuộc và luôn cả chế độ quân phiệt Nhật, nhưng chưa bao giờ đất nước bị điêu tàn, dân tình bị thống khổ cực độ như dưới sự thống trị bạo tàn của đảng Cọng sản phi nhân hôm nay.

Thật vậy, trên 55 năm qua (1945-2001) kể từ khi đảng CSVN cướp đoạt được đất nước, họ đã gây ra không biết bao nhiêu tội ác, Nhưng điển hình và tiêu biểu nhất là các tội sau đây:

1. Thủ tiêu, bắt cóc, ám sát, bán đứng những nhà chí sĩ, anh hùng, ái quốc chân chánh.

2. Ðể chứng tỏ lòng trung thành với đảng Cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh đã giết chết mấy trăm ngàn người Việt thuộc các giai cấp Trí, Phú, Ðịa, Hào trong phong trào cải cách ruộng đất tại miền Bắc (1954 - 1956). Trong số những oan hồn này đã có rất nhiều người vốn là ân nhân của Việt Minh, tiền nhân của đảng CSVN ngày nay. Những nạn nhân này bị giết chết bằng nhiều hình thức ghê rợn: Chặt đầu, móc mắt, mổ ruột, chôn sống, nhận nước, treo cổ, đập đầu, rút hết móng tay, móng chân.

3. Ðập phá tượng chư Phật, Bồ Tát; Ðốt phá chùa viện, thánh thất, nhà thờ hoặc biến những nơi tôn nghiêm này thành kho chứa lúa, chứa phân, thậm chí chúng còn làm chỗ nuôi heo gà.

4. Giết chết các bậc tu sĩ nổi tiếng của Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo., điển hình như chư vị Hòa thượng Thích Trí Thủ, Thích Thiện Minh, Thích Thanh Trí., Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ của Phật Giáo Hòa Hảo.

5. Tàn sát và vùi lấp bằng những nấm mồ tập thể đồng bào xứ Huế trong dịp Tết Nguyên Ðán, Mậu Thân -1968.

6. Pháo kích vào trường học Cai lậy, vào đồng bào di tản từ Quảng Trị (thị xã) đến Diên Sanh trên "Ðại Lộ Kinh Hoàng", làm nát thịt tan xương không biết bao nhiêu nạn nhân vô tội.

7. Ðào xới, san bằng những nghĩa địa công cũng như tư để xây nhà bán đất.

8. Phỉnh gạt và lùa hàng trăm ngàn thiếu niên nam nữ vào chỗ chết trong chiến dịch gọi là "Sanh Bắc Tử Nam."

9. Ðánh tư sản mại bản, đổi tiền, vơ vét tất cả tài sản của miền Nam chở về Bắc. Xuất cảng dân đi lao động ở các nước Cọng sản anh em để trả nợ. Bán hàng chục ngàn phụ nữ ra nước để bòn rút dollars là một cách hút máu dân lành quá ư man rợ, là một thủ đoạn gian manh, cướp của giữa ban ngày.

10. Tù đày, tra tấn, giết chết, giam cầm cả triệu quân, cán, chính miền Nam và những người không đồng chánh kiến trong những trại tù vô cùng khắc nghiệt, tàn nhẫn mà Cọng sản gọi là trại cải tạo là một hình thức sát nhân kiểu Ðức Quốc Xã, nhưng còn ghê tởm hơn nhiều, vì nạn nhân ở đây là người Việt. Ngoài ra, việc CSVN cắt xén lãnh thổ Việt Nam để hiến dâng cho Trung Cộng là một hành động phản quốc chưa từng thấy, là một tội ác không thể tha thứ.

Gần đây, Cộng sản Việt Nam dùng bạo lực bắt giam Linh Mục Nguyễn Văn Lý; dùng luật rừng giam lỏng Ðại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang suốt 19 năm; quản chế nghiêm ngặt Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ tại Thanh Minh Thiền Viện; nhuyến cấm cụ Lê Quang Liêm; đàn áp khốc liệt đồng bào thiểu số ở Cao Nguyên Miền Trung mà đa số theo đạo Tin Lành. đã phơi bày 100% tính chất dã man, tàn ác, độc tài, độc tôn, bạo trị và bất bao dung tôn giáo của Cọng sản Việt Nam.

Ðứng trước thảm họa diệt vong của cả một giống nòi có 4,000 năm văn hiến như thế, là những người tỵ nạn Cọng sản, không phân biệt tín ngưỡng, chánh kiến, chúng ta phải làm gì để cứu nguy 80 triệu đồng bào nói chung và những vị tu hành nói riêng?

Hỡi những ai còn nhất điểm lương tâm với giang sơn gấm vóc, với nền đạo lý cổ truyền của Tổ tiên Ông Bà hãy tìm về và ngồi lại để biến những đốm lửa lẻ tẻ của những ngọn nến đêm nay thành một biển lửa bất tận hầu đốt sạch cái chủ thuyết ngoại lai hại dân hại nước.

Nước mất thì nhà tan, còn quê hương là còn tất cả và ngược lại. Do đó, chúng ta đấu tranh là vì chính nghĩa quốc gia, vì phúc lợi của toàn dân, nói khác đi, là vì toàn dân, vì sơn hà xã tắc mà trò gian, diệt bạo chứ không phải vì danh lợi cá nhân hay dòng họ, bởi lẽ, dòng họ của chúng ta là con Rồng Cháu Tiên.

Chúng ta cần phải nhận chân rõ ràng rằng đảng CSVN chính là nguồn gốc phát sanh ra mọi nỗi khổ đau, bất hạnh, lạc hậu, đói nghèo, là tội khơi họa thủ gây ra thảm cảnh: Ðĩ điếm, trôm cướp, buôn lậu, tham ô, bất công, áp bức, để rồi từ đó kéo theo cái hệ luận tất yếu là hàng triệu thương phế binh, trẻ con mồ côi hay hàng vạn cụ già tật nguyền, đói rách đang sống lang thang đầu đường xó chợ hoặc hàng ngàn bà mẹ phải bán máu nuôi con.

Vì thế, ngày nào cái đảng CSVN còn thống trị đất nước thì ngày ấy toàn dân (trừ những đảng viên Cọng sản) còn thống khổ lầm than, còn sống trong thảm cảnh có mắt như mù, có tai như điếc, có miệng như câm. bởi vậy muốn thật sự cứu dân cứu nước chúng ta chỉ có một con đường duy nhất là GIẢI THỂ CHẾ ÐỘ Cộng sản ác ôn.

Suy ra, những kẻ tự xé bỏ lý lịch người Việt Quốc Gia, tự xóa bôi căn cước tỵ nạn Cọng sản, những tên đi đêm hay làm ăn với kẻ thù dân tộc; lập hội nọ, đoàn kia trong ý đồ trục lợi, tiếp sức hà hơi cho chủ nghĩa tam vô, sắt máu, những người như thế dầu họ loon lẹo viện dẫn bất cứ lý do gì, núp dưới bất cứ chiêu bài nào cũng chỉ là những hành động để lộ cái tính bất trung để khỏi nói là nối giáo cho giặc là Việt gian, Giáo gian, là những người xây lưng lại với đất nước, quê hương hay phỉ nhổ lên linh hồn của những bậc tiền bối hữu công, những anh hùng liệt nữ luôn luôn một dạ trung trinh vì dân vì nước.

Tóm lại, hơn bao giờ hết, trong lúc này bất cứ cá nhân hay tổ chức nào làm hoặc nói bất cứ điều gì có lợi cho bạo quyền CSVN đều đắc tội với Tổ Quốc, phản bội và chà đạp lên trên nỗi khổ đau tốt cùng của 80 chục triệu đồng bào ruột thịt.

Sau hết, mong rằng những ngọn nến nhỏ nhoi hôm nay chỗ này sẽ soi sáng lương tâm các chính thể tự do trên thế giới để may ra hoa TƯ DO, DÂN CHỦ và NHÂN QUYỀN còn có cơ hội nẩy nở, và để cho những đầu óc vốn đã trai lỳ ở Bắc Bộ Phủ sớm bừng tỉnh hầu nhận ra nẻo chánh đường tà, biết đâu là cây cỏ may nhất thời và đâu là cổ thụ muôn thuở.

Kính chào và cảm ơn tất cả qúy vị.

Thích Chánh Lạc.

UE: NQ1481 ket an CNCS la toi ac chong nhan loai

COUNCIL OF EUROPE

Kết án : Chủ NghĩaCS là tội ác chống nhân loại (25/1/2006)

Resolution 1481 (2006)1

Need for international condemnation of crimes of totalitarian communist regimes

1. The Parliamentary Assembly refers to its Resolution 1096 (1996) on measures to dismantle the heritage of the former communist totalitarian systems.

2. The totalitarian communist regimes which ruled in central and eastern Europe in the last century, and which are still in power in several countries in the world, have been, without exception, characterised by massive violations of human rights. The violations have differed depending on the culture, country and the historical period and have included individual and collective assassinations and executions, death in concentration camps, starvation, deportations, torture, slave labour and other forms of mass physical terror, persecution on ethnic or religious grounds, violation of freedom of conscience, thought and expression, of freedom of the press, and also lack of political pluralism.

3. The crimes were justified in the name of the class struggle theory and the principle of dictatorship of the proletariat. The interpretation of both principles legitimised the “elimination” of people who were considered harmful to the construction of a new society and, as such, enemies of the totalitarian communist regimes. A vast number of victims in every country concerned were its own nationals. It was the case particularly of the peoples of the former USSR who by far outnumbered other peoples in terms of the number of victims.

4. The Assembly recognises that, in spite of the crimes of totalitarian communist regimes, some European communist parties have made contributions to achieving democracy.

5. The fall of totalitarian communist regimes in central and eastern Europe has not been followed in all cases by an international investigation of the crimes committed by them. Moreover, the authors of these crimes have not been brought to trial by the international community, as was the case with the horrible crimes committed by National Socialism (Nazism).

6. Consequently, public awareness of crimes committed by totalitarian communist regimes is very poor. Communist parties are legal and active in some countries, even if in some cases they have not distanced themselves from the crimes committed by totalitarian communist regimes in the past.

7. The Assembly is convinced that the awareness of history is one of the preconditions for avoiding similar crimes in the future. Furthermore, moral assessment and condemnation of crimes committed play an important role in the education of young generations. The clear position of the international community on the past may be a reference for their future actions.

8. Moreover, the Assembly believes that those victims of crimes committed by totalitarian communist regimes who are still alive or their families, deserve sympathy, understanding and recognition for their sufferings.

9. Totalitarian communist regimes are still active in some countries of the world and crimes continue to be committed. National interest perceptions should not prevent countries from adequate criticism of current totalitarian communist regimes. The Assembly strongly condemns all those violations of human rights.

10. The debates and condemnations which have taken place so far at national level in some Council of Europe member states cannot give dispensation to the international community from taking a clear position on the crimes committed by the totalitarian communist regimes. It has a moral obligation to do so without any further delay.

11. The Council of Europe is well placed for such a debate at international level. All former European communist countries, with the exception of Belarus, are now members, and the protection of human rights and the rule of law are basic values for which it stands.

12. Therefore, the Assembly strongly condemns the massive human rights violations committed by the totalitarian communist regimes and expresses sympathy, understanding and recognition to the victims of these crimes.

13. Furthermore, it calls on all communist or post-communist parties in its member states which have not yet done so to reassess the history of communism and their own past, clearly distance themselves from the crimes committed by totalitarian communist regimes and condemn them without any ambiguity.

14. The Assembly believes that this clear position of the international community will pave the way to further reconciliation. Furthermore, it will hopefully encourage historians throughout the world to continue their research aimed at the determination and objective verification of what took place.
1. Assembly debate on 25 January 2006 (5th Sitting) (see Doc. 10765, report of the Political Affairs Committee, rapporteur: Mr Lindblad).Text adopted by the Assembly on 25 January 2006 (5th Sitting).


http://assembly.coe.int/main.asp?Link=/documents/adoptedtext/ta06/eres1481.htm

----

Résolution 1481 (2006) 1 Nécessité d’une condamnation internationale des crimes des régimes communistes totalitaires

1. L’Assemblée parlementaire renvoie à sa Résolution 1096 (1996) relative aux mesures de démantèlement de l’héritage des anciens régimes totalitaires communistes.

2. Les pouvoirs communistes totalitaires qui étaient en place en Europe centrale et orientale au siècle dernier, et qui existent toujours dans plusieurs pays du monde, sont, sans exception, caractérisés par des violations massives des droits de l’homme. Ces violations, qui variaient selon la culture, le pays et la période historique, incluaient les assassinats et les exécutions, qu’ils soient individuels ou collectifs, les décès dans des camps de concentration, la mort causée par la faim, les déportations, la torture, le travail forcé et d’autres formes de terreur physique collective, les persécutions pour des motifs ethniques ou religieux, les atteintes à la liberté de conscience, de pensée et d’expression, et à la liberté de la presse, et l’absence de pluralisme politique.

3. Les crimes ont été justifiés au nom de la théorie de la lutte des classes et du principe de la dictature du prolétariat. L’interprétation de ces deux principes rendait légitime «l’élimination» des personnes considérées comme nuisibles à la construction d’une société nouvelle et, par conséquent, ennemies des régimes communistes totalitaires. Dans chacun des pays concernés, les victimes étaient en grande partie des nationaux. C’était le cas notamment des populations de l’ex-URSS dont le nombre de victimes dépassa largement celui d’autres nationalités.

4. L’Assemblée reconnaît que, malgré les crimes des régimes communistes totalitaires, certains partis communistes européens ont contribué à la réalisation de la démocratie.

5. La chute des régimes communistes totalitaires d’Europe centrale et orientale n’a pas toujours été suivie d’une enquête internationale sur les crimes qu’ils ont commis. En outre, les auteurs de ces crimes n’ont pas été traduits devant la justice par la communauté internationale, comme cela a été le cas pour les crimes horribles commis par le national-socialisme (nazisme).

6. En conséquence, le grand public est très peu conscient des crimes commis par les régimes communistes totalitaires. Les partis communistes sont légaux et encore actifs dans certains pays, alors qu’ils n’ont parfois même pas pris leurs distances par rapport aux crimes commis dans le passé par des régimes communistes totalitaires.

7. L’Assemblée est convaincue qu’une prise de conscience de l’Histoire est l’une des conditions à remplir pour éviter que des crimes similaires se reproduisent à l’avenir. En outre, le jugement moral et la condamnation des crimes commis jouent un rôle important dans l’éducation des jeunes générations. Une position claire de la communauté internationale quant à ce passé peut leur servir de référence pour leur action future.

8. De plus, l’Assemblée estime que les victimes, toujours en vie, de crimes commis par des régimes communistes totalitaires ou leurs familles appellent la compassion, la compréhension et la reconnaissance de leurs souffrances.

9. Il reste des régimes communistes totalitaires dans certains pays du monde et des crimes continuent d’y être commis. Les prétendus intérêts nationaux ne doivent pas empêcher les pays d’exprimer des critiques justifiées à l’encontre des régimes communistes totalitaires actuels. L’Assemblée condamne avec force toutes ces violations des droits de l’homme.

10. Les débats qui ont eu lieu et les condamnations prononcées jusqu’à présent au niveau national dans certains Etats membres du Conseil de l’Europe ne sauraient dispenser la communauté internationale de prendre clairement position sur les crimes commis par les régimes communistes totalitaires. Elle a l’obligation morale de le faire sans plus attendre.

11. Le Conseil de l’Europe est bien placé pour lancer un tel débat au niveau international. Tous les anciens pays communistes d’Europe, à l’exception du Bélarus, en sont aujourd’hui membres, et la protection des droits de l’homme et l’Etat de droit sont les valeurs fondamentales qu’il défend.

12. En conséquence, l’Assemblée condamne avec vigueur les violations massives des droits de l’homme commises par les régimes communistes totalitaires, et exprime aux victimes de ces crimes sa compassion et sa compréhension et reconnaît leurs souffrances.

13. En outre, elle invite tous les partis communistes ou postcommunistes de ses Etats membres qui ne l’ont pas encore fait à reconsidérer l’histoire du communisme et leur propre passé, à prendre clairement leurs distances par rapport aux crimes commis par les régimes communistes totalitaires et à les condamner sans ambiguïté.

14. L’Assemblée estime que la clarté de cette position adoptée par la communauté internationale favorisera la poursuite de la réconciliation. En outre, il faut espérer qu’elle encouragera les historiens du monde entier à continuer leurs recherches visant à établir et à vérifier objectivement le déroulement des faits.

1. Discussion par l’Assemblée le 25 janvier 2006 (5e séance) (voir Doc. 10765, rapport de la commission des questions politiques, rapporteur: M. Lindblad). Texte adopté par l’Assemblée le 25 janvier 2006 (5e séance).

http://assembly.coe.int/mainf.asp?Link=/documents/adoptedtext/ta06/fres1481.htm

----------
Theo tác gia của nghị quyết : " ông không bàn đến lý thuyết mục đích của cncs (hoang tưởng) , về mặt thực hành nó hoàn toàn dựa trên SỰ GIẢ DỐI và bao lực )

----------

HỘI ĐỒNG ÂU CHÂU
Nghị Viện

Quốc tế cần lên án những tội ác của các chế độ cộng sản toàn trị
Nghị quyết 1481 (năm 2006)
(1)

1- Nghị viện tham chiếu Nghị quyết 1096 (năm 1996) của mình về các biện pháp nhằm gỡ bỏ di sản của các cựu hệ thống cộng sản toàn trị. (2)

2. Các chế độ cộng sản toàn trị từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ trước, và hiện vẫn còn cầm quyền trong nhiều quốc gia trên thế giới, hết thảy đều có đặc điểm là vi phạm nghiêm trọng các nhân quyền. Những vi phạm này khác nhau tùy theo văn hóa, quốc gia, giai đoạn lịch sử và bao gồm các vụ ám sát và xử tử cá nhân lẫn tập thể, chết trong các trại tập trung, bỏ đói, lưu đầy, tra tấn, lao công nô dịch và các hình thức khác như khủng bố thể lý hằng loạt, bách hại dựa trên chủng tộc hoặc tôn giáo, vi phạm tự do lương tâm, tư tưởng và phát biểu, tự do báo chí, cũng như thiếu đa nguyên chính trị.

3. Các tội ác đã được biện minh nhân danh lý thuyết đấu tranh giai cấp và nguyên tắc chuyên chính vô sản. Sự giải thích hai nguyên tắc này đã hợp thức hóa việc "trừ khử" những người bị xem là nguy hại cho việc xây dựng một xã hội mới, và như thế là kẻ thù của các chế độ cộng sản toàn trị. Một số lớn nạn nhân trong mỗi quốc gia liên hệ đã là chính công dân của quốc gia ấy. Đặc biệt đó là trường hợp của các dân tộc thuộc cựu Liên bang Xô viết, vốn vượt rất xa các dân tộc khác về con số nạn nhân.

4. Nghị viện thừa nhận rằng, bất chấp những tội ác của các chế độ cộng sản toàn trị, vài đảng cộng sản Âu Châu cũng từng đóng góp nhiều vào việc hoàn tất nền dân chủ.

5. Trong mọi trường hợp, sự sụp đổ của các chế độ cộng sản toàn trị ở Trung và Đông Âu đã không kéo theo một cuộc điều tra quốc tế về các tội ác mà chúng đã phạm. Hơn thế nữa, các tác giả của những tội ác này đã không bị cộng đồng quốc tế mang ra xử án, như trường hợp các tội ác khủng khiếp của chế độ Quốc Xã.

6. Bởi thế, hiểu biết của công chúng về những tội ác do các chế độ cộng sản toàn trị phạm phải quá nghèo nàn. Các đảng Cộng Sản đều hợp pháp và còn hoạt động tại một số quốc gia, cho dẫu trong vài trường hợp họ đã dính líu tới những tội ác mà các chế độ cộng sản toàn trị đã phạm trong quá khứ.

7. Nghị viện xác tín rằng việc hiểu biết lịch sử là một trong các điều kiện tiên quyết để tránh những tội ác tương tựa trong tương lai. Hơn nữa, việc đánh giá theo luân lý và lên án các tội ác đã phạm đóng một vai trò quan trọng trong việc giáo dục các thế hệ trẻ. Quan điểm minh bạch của cộng đồng quốc tế về quá khứ có thể là một điểm tham chiếu cho những hành động tương lai của họ.

8. Ngoài ra, Nghị viện tin rằng các nạn nhân của những tội ác do các chế độ cộng sản toàn trị phạm phải mà đang còn sống hoặc gia đình họ đều đáng được thương xót, cảm thông và thừa nhận các thống khổ của họ.

9. Các chế độ cộng sản toàn trị còn hoạt động tại vài quốc gia trên thế giới và các tội ác tiếp tục được phạm. Các mối quan tâm về quyền lợi đất nước chớ nên ngăn cản các quốc gia phê phán đầy đủ các chế độ cộng sản toàn trị hiện tại. Nghị viện mạnh mẽ lên án mọi vi phạm nhân quyền này.

10. Các tranh luận và lên án mà cho tới bây giờ vẫn được tiến hành ở bình diện quốc gia tại vài nước thành viên Hội đồng Âu châu không thể miễn trừ cho cộng đồng quốc tế khỏi chọn một quan điểm minh bạch về các tội ác do các chế độ cộng sản toàn trị phạm phải. Cộng đồng quốc tế có một nghĩa vụ luân lý buộc làm như thế, không được trì hoãn hơn nữa.

11. Hội đồng Âu châu là vị trí tốt cho một cuộc tranh luận như vậy ở bình diện quốc tế. Mọi cựu quốc gia cộng sản Âu châu, ngoại trừ Belarus, nay là thành viên của Hội đồng và việc bảo vệ nhân quyền lẫn qui tắc pháp luật là những giá trị nền tảng mà Hội đồng đang ủng hộ.

12. Bởi thế, Nghị viện mạnh mẽ lên án những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của các chế độ cộng sản toàn trị và bầy tỏ lòng thương xót, cảm thông và thừa nhận đối với các nạn nhân của những tội ác này.

13. Hơn nữa, Nghị viện kêu gọi mọi đảng cộng sản hoặc hậu-cộng sản trong các quốc gia thành viên, mà cho tới nay đã chẳng làm như thế để tái thẩm định lịch sử chủ nghĩa cộng sản và quá khứ riêng của mình, hãy minh bạch tách mình khỏi các tội ác do các chế độ cộng sản toàn trị phạm phải và lên án chúng không chút mơ hồ.

14. Nghị viện tin rằng quan điểm minh bạch này của cộng đồng quốc tế sẽ mở đường cho sự hòa giải trong tương lai. Hơn nữa, quan điểm đó hứa hẹn sẽ khuyến khích các sử gia khắp thế giới tiếp tục công cuộc khảo cứu của họ nhằm xác định và kiểm chứng cách khách quan về những gì đã xảy đến.

------------------------------------------------------------
(1) Nghị viện tranh luận vào ngày 25-01-2006 (phiên họp thứ 5) (xem Doc.10765, tường trình của Ủy ban Chính trị vụ, tường trình viên: Ông Lindblad). Văn bản được Nghị viện thông qua ngày 25-01-2006 (phiên họp thứ 5).
Bản dịch của Lm. Phan Văn Lợi từ Anh ngữ
(2) Nghị viện của Liên hiệp Âu châu (EP - European Parliament) hiện nay có 732 Dân biểu của 25 Nước. Còn Nghị viện của Hội đồng Âu châu (PACE – Parlimentary Assembly of Council of Europe) hiện nay có 142 Nghị sĩ của 46 Nước. Nghị quyết 1481 được PACE biểu quyết ngày 25-01-2006 (phiên họp thứ 5) với 99 phiếu thuận, 42 phiếu chống, tức 2/3 +5 phiếu tán thành. Nghị quyết nầy được ghi phía trên góc trái là Provisional edition (Bản văn chưa phải chung cục), nghĩa là còn có thể bổ sung, nhưng những điều đã biểu quyết thì có tính dứt khoát, không cần tranh luận hoặc biểu quyết lại nữa, chứ không có nghĩa là “tạm thời“ như thể còn cần phải biểu quyết lại lần khác sau như có người đã cố tình hiểu lệch đi.

________
- Sach đen về Chủ nghĩa cộng sản (livre noir du communisme)
http://www.tinparis.net/vn_index.html (Muc tim hieu)


Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản : Tàn sát , khủng bố, đàn áp Phần 1 . Tàn sát, khủng bố và đàn áp.

Lời nói đầu

Chương 1 : Nghịch biện và sự hiểu lầm cuộc cách mạng tháng 10
Chương 2 : Lực lượng võ trang của chuyên chính vô-sản
Chương 3 : Khủng bố đỏ
Chương 4 : Cuộc chiến bẩn thỉu
Chương 5 : Từ TAMBOV đến nạn đói lớn
Chương 6 : Từ cuộc hưu chiến đến đoạn quanh lớn
Chương 7 : Giải tán quy chế điền chủ và cưỡng bách canh tác tập thể
Chương 8 : Nạn đói lớn
Chương 9 : Các phần tử xa lạ với Xã - Hội và các chu kỳ đàn áp
Chương 10 : Cuộc khủng bố vĩ đại trong những năm 1936 - 1938
Chương 11 : Đế Quốc ngục tù
Chương 12 : Mặt trái của cuộc chiến thắng
Chương 13 : Cao điểm của các khủng hoảng trong các hợp tác xã nông nghiệp
Chương 14 : Cuộc âm mưu cuối cùng
Chương 15 : Giả từ chủ nghiã Staline
Chương 16 : Kết luân phần Nhà Nước chống lại nhân dân

Phần 2 . Cách mạng thế giới - Nội chiến và Khủng bố
Chương 17 : Komintern được phát động và hành động của cơ quan nầy
Chương 18 : Bóng đen của cơ quan của cơ quan NKVD trên lãnh thổ Espagne
Chương 19 : Cộng sản và khủng bố.

----------
Nghi quyet Au Chau 1481 con duong giai the che do ...
Hay khoc cho cac nguoi va con chau cac nguoi
Qua trinh tu huy cua Che do cs

Sai lam cua VC d/v Dan toc va Dao phap (1) HT TQD
Toi ac cs: tam thu goi dong bao toi (NNP)
Cuoc Xam lang khong tieng sung (1) (Vinh Nhu)

_______
Ve Toi ac cua CNCS, HCM va csvn

http://hosotoiac.blogspot.com/
http://bimat.blogspot.com/
http://toaan.blogspot.com/
http://que-huong.blogspot.com

- Những thủ đoạn cs đối với tôn giáo ...

Giáo dục Việt Nam hiện tại: Căn nguyên suy thoái - 1

Giáo dục Việt Nam hiện tại: Căn nguyên suy thoái


Trần Gia Phụng

Căn nguyên suy thoái của nền giáo dục Việt Nam hiện tại – (Phần 1)



Nền giáo dục Việt Nam hiện tại đang suy thoái trầm trọng. Sự suy thoái nầy không phải chỉ một sớm một chiều, mà đã bắt đầu khá lâu, có thể mấy chục năm nay, từ khi chế độ cộng sản xuất hiện ở Việt Nam. Nền giáo dục cứ đi xuống từ từ, khó nhận biết. Người ta nói đi xuống theo hình trôn ốc. Nghĩa là càng xuống thì sự yếu kém của nền giáo dục càng rộng ra, từ thế hệ nầy qua thế hệ sau. Kém đến nổi vào đầu năm 2007, hai giảng viên trường Đại học Sư phạm Thái Bình đã phát biểu rằng Tự Lực Văn Đoàn là một đoàn Cải lương và Nhất Linh là một tài tử cải lương.(1) Giảng viên ĐHSP mà như thế thì những người học trò của họ, những giáo sinh ĐHSP, tức những người thầy tương lai của Việt Nam sẽ như thế nào?

1. Chính sách Văn hoá Giáo dục qua các Hiến Pháp

Để tìm căn nguyên suy thoái của nền giáo dục Việt Nam hiện nay, có lẽ cần phải bắt đầu từ đầu, tức đi thẳng vào chính sách giáo dục của chế độ cộng sản Việt Nam.

Hiến pháp năm 1946 nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, được Quốc hội đầu tiên thông qua ngày 9/11/1946, gồm 7 chương với 70 điều, trong đó điều 15, mục B, chương II, ghi rằng:

Nền sơ học cưỡng bách và không học phí ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước.


Đó là điều duy nhất trong hiến pháp năm 1946 quy định về nền giáo dục. Cần chú ý là lúc đó, tình hình khá căng thẳng, sắp xảy ra chiến tranh, nên tất cả mọi người đều chú trọng vào việc kháng Pháp, việc ngọai giao, quốc phòng… Việc giáo dục chẳng được chú ý là chuyện bình thường, ai cũng lo “xếp bút nghiên theo việc đao cung”.

Sau năm 1954, đất nước bị chia hai. Đảng Lao Động và Hồ Chí Minh cầm quyền ở phía bắc vĩ tuyến 17, tiếp tục chế độ VNDCCH. Hiến Pháp thứ hai của nước VNDCCH gồm 10 chương với 112 điều, được Quốc hội Bắc Việt thông qua ngày 31/12/1959, trong đó các điều 33, 34, 35 thuộc chương III nói về chủ trương văn hóa giáo dục, cũng chỉ trình bày chủ trương tổng quát gần như hiến pháp năm 1946. Có thể vì lúc đó, nhà cầm quyền Hà Nội đang chuẩn bị tấn công miền Nam, nên tránh việc quá lộ liễu “tính đảng” trong văn hóa giáo dục.

Sau khi đánh chiếm toàn bộ miền Nam năm 1975, nhà nước Hà Nội tổ chức bầu cử Quốc hội trên toàn quốc ngày 25/4/1976. Quốc hội họp phiên đầu ngày 24/6/1976 tại Hà Nội. Trong phiên họp hơn một tuần sau đó, ngày 2/7/1976, Quốc hội tuyên bố đổi tên nước thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), thủ đô là Hà Nội. Về phía đảng Lao Động, nay không còn phải tránh né dư luận trong và ngoài nước, đảng Lao Động tự đổi thành đảng Cộng Sản Việt Nam trong Đại hộI IV, từ 14 đến 20/12/1976. Lê Duẩn tiếp tục giữ chức tổng bí thư.

Ngày 27-6-1978, tại Bucarest (thủ đô Romania), CHXHCNVN gia nhập khối COMECON (Council for Mutual Economic Assistance tức Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế) tức khối kinh tế do Liên Xô đứng đầu. Sau đó, ngày 3/11/1978, Lê Duẩn sang Liên Xô ký với Leonid Brezhnev, tổng bí thư đảng CSLX, “Hiệp ước hai mươi lăm năm hỗ tương và phòng thủ” giữa hai nước.

Nói một cách khác, từ nay, CSVN không cần ẩn danh dưới một hình thức chính trị nào và để lộ hẳn bản chất của một chế độ cộng sản toàn trị. Việc nầy thấy rõ trong chính sách văn hóa giáo dục của nhà nước Hà Nội trong hiến pháp năm 1980. Bản hiến pháp nầy gồm 7 chương với 147 điều, được Quốc hội Hà Nội thông qua ngày 18/12/1980, trong đó chương III nói về văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật.

Về văn hóa, điều 37 ghi rằng:

Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đầy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa…”

Điều 38 nguyên văn như sau:

Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam. Nhà nước tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối chính sách của đảng Cộng Sản Việt Nam, Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; bảo vệ và phát triển những giá trị văn hóa và tinh thần của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới; chống các tư tưởng phong kiến, tư sản và ảnh hưởng của văn hóa đế quốc, thực dân; phê phán tư tưởng tiểu tư sản; xây dựng nếp sống xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ nếp sống lạc hậu, bài trừ mê tín, dị đoan.


Về giáo dục, điều 40 ghi rằng:

Nền giáo dục Việt Nam không ngừng được phát triển và cải tiến theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất…” Điều 41 thêm vào: “Sự nghiệp giáo dục do Nhà nước thống nhất quản lý…Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình và xã hội cùng với nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.


Về văn học, điều 44 viết:

Văn học nghệ thuật Việt Nam được xây dựng trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và theo đường lối văn nghệ của Đảng Cộng Sản Việt Nam


Sau đó, từ năm 1989 đến năm 1991, các chế độ cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ, chủ nghĩa Mác-Lênin hoàn toàn bị phế thải ở Âu Châu, nên CHXHCNVN chẳng đặng đừng phải thay đổi hiến pháp. Hiến pháp mới được Quốc hội thông qua ngày 15/4/1992, gồm 12 chương và 147 điều, trong đó, chương III nói về văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bỏ bớt những từ ngữ liên hệ đến chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng cũng mang tính toàn trị, đại khái như “nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa…” (điều 30), “nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung…” (điều 36).

Như thế, chỉ có bản hiến pháp năm 1946 chấp nhận hệ thống tư thục, còn từ hiến pháp năm 1959 đến hiến pháp năm 1992, là “nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục…”. Tuy rất tổng quát, nhẹ nhàng, nhưng “thống nhất quản lý” là ngôn ngữ hành chánh, ngôn ngữ chính trị, có nghĩa là độc quyền quản lý, hay nói cách khác việc giáo dục thuộc độc quyền của nhà nước, không có hệ thống tư nhân, không có các trường của các tôn giáo hay các hội đoàn. Giống như nhà nước độc quyền chính trị, độc quyền kinh tế, độc quyền tài chánh, độc quyền ngọai thương, độc quyền báo chí…


2. Chủ trương Giáo dục phục vụ chính trị

Trong bài nói chuyện tại lớp học tập chính trị khoảng 3.000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc (dạy từ lớp 6 đến lớp 12), do bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13/9/1958, Hồ Chí Minh nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.” (Báo Nhân Dân ngày 14/9/1958.) Câu nầy, Hồ Chí Minh dịch của Quản Trọng thời Xuân thu (722-479 TCN) bên Trung Hoa (thập niên chi kế tại ư thụ mộc, bách niên chi kế tại ư thụ nhân). Như thế, Hồ Chí Minh và đảng CSVN thấy rõ tầm quan trọng chiến lược của việc giáo dục.

Do đó, ngay từ đầu, khi một mình đảm trách nền giáo dục toàn quốc từ sau năm 1946 cho đến nay, bộ Giáo dục nhà nước cộng sản không những chỉ quản lý chặt chẽ nền giáo dục, mà còn thi hành chủ trương giáo dục phục vụ chính trị, phục vụ đảng.

Theo những nhà giáo lớn tuổi, lúc mới chiếm được chính quyền vào tháng 9/1945, nhà nước VNDCCH vẫn còn theo chương trình giáo dục lập ra từ thời chính phủ Trần Trọng Kim. Vị bộ trưởng giáo dục trong chính phủ Việt Minh đầu tiên ngày 2/9/1945 là ông Vũ Đình Hòe. Ngày 3/11/1946, Hồ Chí Minh cải tổ nội các, một tuần trước khi hiến pháp đầu tiên được thông qua. Ông Nguyễn Văn Huyên được đưa lên thay ông Vũ Đình Hòe, giữ chức bộ trưởng giáo dục. Ông Nguyễn Khánh Toàn làm thứ trưởng.

Tuy là thứ trưởng, nhưng mọi quyền hành nằm trong tay ông Nguyễn Khánh Toàn, vì ông là đảng viên cộng sản lâu năm. Nguyễn Khánh Toàn dạy tiếng Việt ở Moscow từ năm 1927, có tên Nga là Minin, có vợ Nga, vào học ở Học viện Thợ thuyền Đông phương (Université des travailleurs d’Orient) từ năm 1928 đến năm 1931. Sau đó, Toàn ở lại Liên Xô. Năm 1939, Nguyễn Khánh Toàn cùng Nguyễn Ái Quốc qua Trung Hoa, cùng đến Diên An, căn cứ của CSTH, năm 1941. Toàn ở lại Diên An, đến năm 1946 mới trở về Việt Nam.(2)

Tất cả những thay đổi trong nền giáo dục bắt đầu khi Nguyễn Khánh Toàn trở về Việt Nam, ứng dụng triết lý giáo dục của Liên Xô, do bộ trưởng giáo dục Liên Xô là Kalenikov (?) đưa ra. Đó là “Giáo dục phục vụ chính trị”, tức giáo dục phải phục vụ chế độ do đảng Cộng Sản điều hành, hay nói cách khác, giáo dục phải có tính đảng và những nhà giáo, giáo viên, phải có lập trường đảng thật vững vàng.

Trong lúc chiến tranh tiếp diễn, Nguyễn Khánh Toàn ra lệnh tổ chức những trại huấn luyện cho giáo viên trong khu vực do Việt Minh cộng sản chiếm đóng, phổ biến nền giáo dục mới tại các liên khu. Trại huấn luyện liên khu 3 tổ chức tại Yên Mô (Ninh Bình) và liên khu 4 tại Cổ Định (Nông Cống, Thanh Hóa).(3) Sau khi được huấn luyện, các cán bộ nòng cốt trở về tỉnh của mình, tổ chức truyền đạt lại cho giáo viên cấp tỉnh, rồi từ tỉnh xuống huyện.

Chính sách giáo dục phục vụ chính trị là chủ trương cốt lõi của chế độ cộng sản, được đảng Cộng Sản (đổi thành đảng Lao Động từ năm 1951, rồi đảng Cộng sản Việt Nam năm 1976) và nhà nước do đảng nầy lập ra, thực hiện hết sức nghiêm chỉnh trong các vùng do Việt Minh kiểm sóat từ năm 1948 đến năm 1954, ở miền Bắc Việt Nam (bắc vĩ tuyến 17) từ năm 1954 đến năm 1975, và trên toàn cõi Việt Nam từ năm 1975 cho đến nay.

Chính sách giáo dục nầy gần đây được củng cố thêm bằng luật số 11/1998/QH10 của Quốc hội Hà Nội, áp dụng từ ngày 2-9-1998, theo đó: “…Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân…lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.”


3. Ứng dụng chu> trương “Giáo dục phục vụ chính trị”

Từ chủ trương chính trị hóa giáo dục, tất cả chương trình học các cấp đều phải theo nhu cầu chính trị của đảng Cộng Sản và của nhà cầm quyền cộng sản. Tiêu chuẩn chọn lựa giáo viên là “hồng hơn chuyên”, có lập trường theo đảng vững vàng hơn là giỏi chuyên môn. Sách giáo khoa do Ban Tu thư Trung ương gồm đảng viên biên sọan, ban Văn hóa tư tưởng đảng duyệt xét, in ấn, trở thành pháp lệnh, bắt buộc giáo viên phải tuân theo.

Nhiều khi sách giáo khoa được viết sai. Ví dụ không ai có thể tưởng tượng nổi sách giáo khoa môn Văn lớp 10, khi bình luận bài “Bình Ngô đại cáo”, đã viết rằng Nguyễn Trãi là nhà bảo vệ môi trường.(Người Việt Online, 7/8/2006, “Sách giáo khoa lớp 10 ở Việt Nam”.)

Dầu vậy, dầu sách giáo khoa viết sai thế nào, giáo viên cũng phải tuân theo, không được dạy khác sách giáo khoa, ngoài sách giáo khoa. Giáo viên và cả học sinh không được suy nghĩ hay phát biểu bất cứ ý kiến gì mới lạ, ngoài những gì cộng sản chủ trương, ngoài những điều đã học ở trường lớp và sách giáo khoa. Nhà nước và nhà trường không chấp nhận cái gì mới ngoài những sách giáo khoa của nhà nước, chủ trương của đảng CSVN. Ai có ý kiến gì khác liền bị quy chụp là xét lại, phản động, chắc chắn sẽ được đưa đi cải tạo, nghĩa là vào tù.

Sách giáo khoa phải luôn luôn đề cao tính ưu việt của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ca tụng đảng Cộng Sản Việt Nam, ca tụng các lãnh tụ đảng. Không phải chỉ ca tụng đảng Cộng Sản Việt Nam, mà cả các đảng Cộng Sản trên thế giới, từ Liên Xô, Đông Âu, Trung Hoa… Và ca tụng toàn thể các lãnh tụ các đảng CS nằm trong hệ thống Đệ tam Quốc tế.

Trong lãnh vực khoa học, sách giáo khoa cộng sản luôn luôn cho rằng chỉ có những nhà khoa học cộng sản, các nước cộng sản là ưu việt, dầu những lý thuyết của các tác giả Liên Xô hay Đông Âu cộng sản đã quá cũ, đồng thời chê bai, đả kích những nhà khoa học của các nước tư bản, đế quốc.
Có một câu thơ điển hình về việc nầy:


Người ta dạy tôi
Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ
Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ,
Tôi đã sống một phần hai thế kỷ
Để hôm nay làm đĩ với tâm hồn.


Trong lãnh vực địa lý, theo sách giáo khoa của CSVN, chỉ có những nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là thực sự phát triển dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng CS, trong khi các nền kinh tế tư bản, tự do là bóc lột, phồn vinh giả tạo.

Trong lãnh vực văn chương, người cộng sản chỉ ca tụng những tác giả xuất hiện từ thời cộng sản, ở Liên Xô, ở Đông Âu, ở Trung Cộng. Riêng ở Việt Nam, thì những tác giả cổ điển bị sách giáo khoa cộng sản cho là mang đầy tư tưởng phong kiến, hưởng lạc trong khi nhân dân đau khổ. Thậm chí, Nguyễn Du vẫn còn tư tưởng lạc hậu, phản động, và thân phận nàng Kiều là một bản cáo trạng đanh thép đối với chế độ phong kiến.(4) Văn học sử Việt Nam dưới chế độ cộng sản luôn luôn đề cao Hồ Chí Minh, Sóng Hồng (Trường Chinh), Tố Hữu…Đề thi trung học quanh quẩn giữa các tác giả cộng sản.

Về lịch sử, thì lịch sử đất nước hay lịch sử thế giới đều được sách của chế độ Hà Nội giải thích theo quy trình của chủ nghĩa công sản, từ xã hội nguyên thủy cho đến ngày nay. Lịch sử được vo tròn bóp méo theo nhu cầu của đảng CS. Người ta còn sáng tác những chuyện hoang tưởng rồi đưa vào lịch sử, và bắt học sinh phải học. Như chuyện Lê Văn Tám, chuyện Tôn Đức Thắng ở Hắc Hải, chuyện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.

Trần Huy Liệu là người đã sáng tác chuyện Lê Văn Tám trong sách giáo khoa Việt sử của cộng sản. Trước khi chết, ông Liệu hối hận vì mình đã bịa chuyện Lê Văn Tám, nên ông Liệu nhờ ông Phan Huy Lê cải chính. Phan Huy Lê đã công khai cải chính trong một cuộc họp của hãng phim truyền hình Việt Nam tại Hà Nội vào cuối tháng 2/2005, bảo rằng chuyện Lê Văn Tám hoàn toàn không có thật (Người Việt Online, Chủ Nhật 20/3/2005). Tuy nhiên, hiện nay học sinh trong nước vẫn phải học “anh hùng Lê Văn Tám”(?). Tại Sài Gòn vẫn còn công viên Lê Văn Tám trên đường Hai Bà Trưng.

Ở bậc trung tiểu học, các em học sinh Việt Nam phải học “Năm điều bác Hồ dạy”. Đó là: “Yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Học tập tốt. Lao động động tốt. Giữ gìn vệ sinh thật tốt. Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.” Trong năm điều nầy, không có điều nào dạy cho trẻ em có hiếu với cha mẹ, thuận thảo với anh chị em, biết kính nễ người lớn tuổi. Người ta còn buộc học sinh học tập theo gương “đạo đức Hồ Chí Minh”(?). Điều nầy làm cho các bậc phụ huynh rất lo ngại, vì các phụ huynh và cả học sinh hiện nay ở trong nước, qua báo chí sách vở hải ngọai, qua internet, đều đã biết Hồ Chí Minh là người như thế nào?

Như thế, ngay từ căn bản, giáo dục dưới chế độ cộng sản đồng nghĩa với giáo dục nhồi sọ, giáo dục giáo điều. Học sinh chỉ biết vâng lời chứ không tập suy nghĩ, không được phê phán, không học suy luận. Từ đó, óc sáng tạo của học sinh bị xơ cứng, dần dần đi đến chỗ thui chột. Sau đây là lời phát biểu của tiến sĩ sử học Phạm Ngọc Tùng, giảng viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội:

Quan niệm giáo dục và thực hành sư phạm phổ biến hiện nay vẫn là truyền thụ, “nhồi” một chiều chứ không phải trao đổi kiến thức. HS hiếm khi phải tư duy, khi đến lớp chủ yếu là... chép bài. Đến lúc gặp phải đề thi có chút tổng hợp, liên kết là lúng túng, không biết lắp ráp thế nào.”(báo Tuổi Trẻ, ngày 28-7-2006) (còn tiếp)

Toronto, 11/3/2007

© DCVOnline


--------------------------------------------------------------------------------
(1): Trong chương trình “Ai sẽ là triệu phú?”, đài VT3 của Hà Nội ngày 9-1-2007, khi được hỏi về liên hệ giữa các nhân vật trong Tự Lực Văn Đoàn, ứng viên Nguyễn Thị Tâm, giảng viên trường ĐHSP Thái Bình trả lời rằng TLVĐ là một đoàn cải lương, Nhất Linh là một tài tử cải lương. Người bạn của ứng viên nầy, cũng là một giảng viên ĐHSP Thái Bình, được giới thiệu là rất giỏi về văn học, cũng trả lời không đúng.(Chương trình nầy được đưa lên Internet.)
(2): Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản [nguyên bản Anh văn], Mặc Định dịch, Paris: 1962, tt.79-81.
(3): Theo lời kể của giáo sư N.Đ.N. ở San Diego, một người có tham dự trại huấn luyện ở Thanh Hóa.
(4): Hà Huy Giáp, “Giới thiệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều, trong Truyện Kiều, Hà Nội: Nxb. Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1973, tt. XXXV và XLI.

No comments: