Saturday, March 31, 2007

VIET CONG MUA SUNG DAN BANG LANH THO, HAI DAO, ...


TAU CONG BAN SUNG DAN CHO VIET CONG DE LAY LANH THO, HAI DAO.. HAY DOC CONG HAM BAN NUOC CUA TEN PHAM VAN DONG.

BANG CHUNG:

1. VIET CONG GIA VO IM LANG TRUOC CAC CUOC TAN CONG CUA TAU CONG DOI VOI CAC HAI DAO HOANG SA, TRUONG SA...

2. VIET CONG DA LAM LE DANG DAT BIEN GIOI CHO TAU CONG

VIET CONG DA MAU MUU MAO TRACH DONG VA CHU AN LAI:
1. CHIA CAT NUOC VIET RA THANH 2 PHE, TAO MAU THUAN HAN THU VE Y THUC HE.
2. XUI DUC, CUONG EP, GAI THE DE HO CHI MINH CHAP NHAN DUNG BAO LUC DANH GIET NGUOI VIET.
3.SUNG DAN MUA CHIU NAY LA DE GIET NGUOI VIET.
4. CHIEN TRANH CANG LAU THI HO CHI MINH CANG MAC NO TAU CONG(30 NAM)


CSVN Và Bốn Tội Phản Bội Tổ Quốc
Thứ Sáu 2 tháng bảy 2004



Trước Tòa Án Quốc Dân và Tòa Án Lịch Sử
Thay mặt đồng bào trong nước không còn quyền được nói
Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền Kết Án Đảng Cộng Sản Việt Nam Về 4 Tội Phản Bội Tổ Quốc

Năm 1999 Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Biên Giới Việt Trung để nhượng đất biên giới cho Trung Quốc. Năm 2000, Đảng Cộng Sản Việt Nam ký Hiệp Định Phân Định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp Định Hợp Tác Nghề Cá để bán nước Biển Đông và dâng cá dâng dầu cho Trung Quốc.

Năm 1958 bằng văn thư của Phạm Văn Đồng, Đảng Cộng Sản Việt Nam cam kết chuyển nhượng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Những hành vi này cấu thành 4 tội phản bội tổ quốc bằng cách "cấu kết với nước ngoài nhằm xâm phạm chủ quyền của quốc gia, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc và xâm phạm quyền của quốc dân được sử dụng đầy đủ những tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước".

I. Tội Nhượng Đất Biên Giới Cho Nước Ngoài

Năm 1949, sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa, mục tiêu chiến lược của Quốc Tế Cộng Sản là nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Triều Tiên. Qua năm sau, 1950, với sự yểm trợ của các chiến xa Liên Xô và chí nguyện quân Trung Quốc, Bắc Hàn đột nhiên kéo quân xâm chiếm Nam Hàn. Mục đích để giành yếu tố bất ngờ. Tuy nhiên âm mưu thôn tính không thành do sự phản kích của quân lực Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. Từ 1951 cuộc chiến bất phân thắng bại đưa đến hòa đàm. Hai năm sau Chiến Tranh Triều Tiên kết thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm tháng 7, 1953. Thất bại trong chiến tranh Triều Tiên, từ 1953 Trung Cộng tập trung hỏa lực và kéo các đại pháo từ mặt trận Bắc Hàn xuống mặt trận Bắc Việt. Để tiếp tế võ khí, quân trang, quân dụng, cung cấp cố vấn và cán bộ huấn luyện cho Bắc Việt, các xe vận tải và xe lửa Trung Cộng đã chạy sâu vào nội địa Việt Nam để lập các căn cứ chỉ huy, trung tâm huấn luyện, tiếp viện và chôn giấu võ khí. Thừa dịp này một số dân công và sắc dân thiểu số Trung Hoa kéo sang Việt Nam định cư lập bản bất hợp pháp để lấn chiếm đất đai. Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai, với các chiến dịch Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân (1968) và Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), Bắc Việt đã huy động toàn bộ các sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam. Để bảo vệ an ninh quốc ngoại chống sự phản kích của quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ (như trong Chiến Tranh Triều Tiên), Bắc Việt đã nhờ hơn 300 ngàn binh sĩ Trung Quốc mặc quân phục Việt Nam đến trú đóng tại 6 tỉnh biên giới. Trong dịp này các dân công và sắc dân thiểu số Trung Hoa đã di chuyển những cột ranh mốc về phía nam dọc theo lằn biên giới để lấn chiếm đất đai. Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba từ 1979, để giành giật ngôi vị bá quyền, Trung Quốc đem quân tàn phá 6 tỉnh biên giới, và khi rút lui đã gài mìn tại nhiều khu vực rộng tới vài chục cây số vuông để lấn chiếm đất đai. Ngày nay dưới áp lực của Bắc Kinh, Hà Nội xin hợp thức hóa tình trạng đã rồi thể theo lời yêu cầu của các sắc dân thiểu số Trung Hoa đã định cư lập bản tại Việt Nam. Năm 1999 họ đã ký Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung để nhượng cho Trung Quốc khoảng 800 cây số vuông dọc theo lằn biên giới trong đó có các quặng mỏ và các địa danh như Ải Nam Quan, Suối Phi Khanh tại Lạng Sơn, Thác Bản Giốc tại Cao Bằng...

II. Tội Bán Nước Biển Đông Cho Nước Ngoài

Kinh nghiệm cho biết các quốc gia láng giềng chỉ ký hiệp ước phân định lãnh thổ hay lãnh hải sau khi có chiến tranh võ trang, xung đột biên giới hay tranh chấp hải phận. Trong cuốn Biên Thùy Việt Nam (Les Frontières du Vietnam), sử gia Pierre Bernard Lafont có viết bài "Ranh Giới Hải Phận của Việt Nam" (La Frontière Maritime du Vietnam). Theo tác giả, năm 1887, Việt Nam và Trung Hoa đã ký Hiệp Ước Bắc Kinh để phân chia hải phận Vịnh Bắc Việt theo đường kinh tuyến 108 Đông chạy từ Trà Cổ Móng Cáy xuống vùng Cửa Vịnh. Đó là đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa tại Vịnh Bắc Việt. Vì đã có sự phân định Vịnh Bắc Việt theo Hiệp Ước Bắc Kinh, nên từ đó hai bên không cần ký kết một hiệp ước nào khác. Do những yếu tố địa lý đặc thù, Việt Nam được 63%, Trung Hoa được 37%. Năm 2000, mặc dầu không có chiến tranh võ trang, không có xung đột hải phận, bỗng dưng vô cớ, phe Cộng Sản đã ký Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh. Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ là một hiệp ước bất công, vi phạm pháp lý và vi phạm đạo lý. Bất công và vi phạm pháp lý vì nó không tuân theo những tiêu chuẩn của Tòa Án Quốc Tế, theo đó sự phân ranh hải phận phải căn cứ vào các yếu tố địa lý, như mật độ dân số và chiều dài bờ biển. Ngày nay dân số Bắc Việt đông gấp 6 lần dân số đảo Hải Nam, và bờ biển Bắc Việt dài gấp 3 lần bờ đảo Hải Nam phía đối diện Việt Nam. Tại miền bờ biển hễ đã có đất thì phải có nước ; có nhiều đất hơn thì được nhiều nước hơn ; có nhiều dân hơn thì cần nhiều nước hơn. Vì vậy hải phận Việt Nam phải lớn hơn hải phận Trung Hoa (63% và 37% theo Hiệp Ước Bắc Kinh). Và cũng vì vậy vùng biển này có tên là Vịnh Bắc Việt. Ngày nay phe Cộng Sản viện dẫn đường trung tuyến để phân ranh hải phận với tỷ lệ lý thuyết 53% và 47%. Như vậy Việt Nam đã mất ít nhất 10% hải phận, khoảng 12.000 km2. Tuy nhiên trên thực tế phe Cộng Sản đã không áp dụng nghiêm chỉnh đường trung tuyến. Họ đưa ra 21 điểm tiêu chuẩn phân định Vịnh Bắc Việt theo đó Việt Nam chỉ còn 45% hải phận so với 55% của Trung Quốc. Bất công hơn nữa vì nó không căn cứ vào những điều kiện đặc thù để phân định Vịnh Bắc Việt. Tại vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hóa), biển rộng chừng 170 hải lý, theo đường trung tuyến, Việt Nam được 85 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí (thay vì 200 hải lý theo Công Ước về Luật Biển). Trong khi đó, ngoài 85 hải lý về phía tây, đảo Hải Nam còn được thêm 200 hải lý về phía đông thông sang Thái Bình Dương. Theo án lệ của Tòa Án Quốc Tế, hải đảo không thể được đồng hóa hay được coi trọng như lục địa. Vậy mà với số dân chừng 7 triệu người, đảo Hải Nam, một tỉnh nhỏ nhất của Trung Quốc, đã được hưởng 285 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí. Trong khi đó 42 triệu dân Bắc Việt chỉ được 85 hải lý. Đây là một bất công quá đáng ! Bị án ngữ bởi một hải đảo (Hải Nam) người dân Bắc Việt bỗng dưng mất đi 115 hải lý tại vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá và tại thềm lục địa để khai thác dầu khí. . Hơn nữa Hiệp Ước này còn vi phạm đạo lý vì nó đi trái với những mục tiêu và tôn chỉ của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền như Công Lý, Bình Đẳng, Hữu Nghị, không cưỡng ép, không thôn tính, không lấn chiếm.

III. Tội Dâng các Tài Nguyên Và Nguồn Lợi Thiên Nhiên Cho Nước Ngoài

Cùng ngày với Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ, Đảng Cộng Sản Việt Nam còn ký Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá. Ngày 15 tháng 6 vừa qua, Quốc Hội đã phê chuẩn Hiệp Ước Phân Định Vịnh Bắc Bộ, nhưng chưa thảo luận về Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá. Theo Hiệp Ước sau này, hai bên sẽ thiết lập một vùng đánh cá chung rộng 60 hải lý, mỗi bên 30 hải lý, từ đường trung tuyến biển sâu nhiều cá, khởi sự từ vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hóa) đến vùng Cửa Vịnh tại vĩ tuyến 17 (Quảng Bình, Quảng Trị). Tại Quảng Bình biển rộng chừng 120 hải lý, theo đường trung tuyến Việt Nam được 60 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng đánh cá chung, ngư dân chỉ còn 30 hải lý gần bờ, khoảng 25% hải phận. Tại Thanh Hóa, biển rộng chừng 170 hải lý, theo đường trung tuyến Việt Nam được 85 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng đánh cá chung, ngư dân chỉ còn 55 hải lý gần bờ, khoảng 32% hải phận. Theo nguyên tắc hợp tác, hùn hiệp, căn cứ vào số vốn, số tầu, số chuyên viên kỹ thuật gia và ngư dân chuyên nghiệp, Trung Quốc sẽ là chủ nhân ông được toàn quyền đánh cá ở cả hai vùng, vùng đánh cá chung và vùng hải phận Trung Hoa. Ngày nay Trung Quốc là quốc gia ngư nghiệp phát triển nhất thế giới. Trên mặt đại dương, trong số 10 tầu đánh cá xuyên dương trọng tải trên 100 tấn, ít nhất có 4 tầu mang hiệu kỳ Trung Quốc. Như vậy trong cuộc hợp tác đánh cá với Trung Quốc, Việt Nam chỉ là cá rô, cá riếc sánh với cá mập, cá kình :

a) Trong số 17 quốc gia ngư nghiệp phát triển trên thế giới có tầu đánh cá lớn trọng tải trên 100 tấn, một mình Trung Quốc chiếm hơn 40% số tầu, so với 5% của Hoa Kỳ, 3% của Nhật Bản và 2% của Đại Hàn, (Việt Nam không có tên trong số 17 quốc gia này).

b) Các tầu đánh cá lớn này có trang bị các lưới cá dài với tầm hoạt động 60 dặm hay 50 hải lý. Do đó đoàn ngư thuyền Trung Quốc không cần ra khỏi khu vực đánh cá chung cũng vẫn có thể chăng lưới về phía tây sát bờ biển Việt Nam để đánh bắt hết tôm cá, hải sản, từ Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh tới Quảng Bình, Quảng Trị. Chăng lưới đánh cá tại khu vực Việt Nam là vi phạm hiệp ước. Tuy nhiên các đội tuần cảnh duyên hải sẽ ngoảnh mặt làm ngơ. Là cơ quan kinh tài của Đảng, họ sẽ triệt để thi hành chính sách thực dụng làm giàu với bất cứ giá nào, kể cả bằng sự đồng lõa cấu kết vi phạm luật pháp và vi phạm hiệp ước. Trong cuộc hợp tác này không có bình đẳng và đồng đẳng. Việt Cộng chỉ là kẻ đánh ké, môi giới hay mại bản, giúp phương tiện cho Trung Cộng mặc sức vơ vét tôm cá hải sản của ngư dân, để xin chia hoa hồng (giỏi lắm là 10% vì Trung Quốc có 100% tầu, 100% lưới và 95% công nhân viên).

c) Rồi đây Trung Cộng sẽ công nhiên vi phạm Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá cũng như họ đã thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển. Chiếu Công Ước, các quốc gia duyên hải có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý để đánh cá. Nhưng cũng có nghĩa vụ phải bảo toàn và dinh dưỡng ngư sinh để dành hải sản cho biển cả và các thế hệ tương lai. Trung Quốc đã trắng trợn và thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển trong chính sách "tận thâu, vét sạch và cạn tầu ráo máng" áp dụng từ thời Đặng Tiểu Bình. Đó là chính sách thực dụng mèo đen mèo trắng, làm giàu là vinh quang, làm giàu với bất cứ giá nào. Từ ¼ thế kỷ theo kinh tế thị trường, với sự phát triển vượt bực về công kỹ nghệ, thương mại, đánh cá và khai thác dầu khí, ngày nay tại vùng duyên hải và thềm lục địa Trung Hoa, các tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên như tôm cá, dầu khí đã cạn kiệt. Trong khi đó nhu cầu canh tân kỹ nghệ hóa và nạn nhân mãn (của 1 tỷ 380 triệu người) đòi hỏi Trung Quốc phải mở rộng khu vực đánh cá và khai thác dầu khí về phía nam.

d) Với 25 năm kinh nghiệm trong nghề cá, Trung Quốc đã huấn luyện được một đội ngũ công nhân viên đông đảo gồm các kỹ thuật gia, các chuyên viên điện tử, và các ngư dân có tay nghề. Trong khi đó về phía Việt Nam chỉ có một số công nhân không chuyên môn để sai phái trong các công tác tạp dịch hay công tác vệ sinh như rửa cá, rửa tầu v...v... Và rồi đây, bên cạnh các lao động nô lệ xuất khẩu tại Đông Nam Á, chúng ta sẽ có thêm một số lao động nô lệ tại Biển Đông trên các tầu đánh cá viễn duyên Trung Quốc.

IV. Tội Chuyển Nhượng Các Quần Đảo Hoàng Sa Trường Sa Cho Nước Ngoài

Với đà này Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ nhượng nốt các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng. Họ đã nhiều lần công bố ý định này :

1) Ngày 15-6-1956, ngoại trưởng Ung Văn Khiêm minh thị tuyên bố : "Hà Nội nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa".

2) Ngày 14-9-1958 qua lời Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước, xác nhận chủ quyền hải phận của Trung Quốc tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

3) Để biện minh cho lập trường của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, một tháng sau khi Trung Cộng tiến chiếm Trường Sa, báo Nhân Dân, cơ quan chính thức của Đảng Cộng Sản, trong số ra ngày 26-4-1988 đã viết : "Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược thì Việt Nam phải tranh thủ sự gắn bó của Trung Quốc, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng 2 quần đảo nói trên".

4) Và hồi tháng 5-1976, báo Saigon Giải Phóng trong bài bình luận việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974, đã viết : "Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là người thầy tin cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc Trung Quốc cũng vậy thôi !".

Từ sau Hiệp Định Genève 1954, mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam là "giải phóng Miền Nam" bằng võ lực. Để chống lại Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng Minh, Hà Nội hoàn toàn trông cậy vào sự yểm trợ của Liên Xô và nhất là Trung Quốc. Do đó một lần nữa, Hà Nội cần sự cưu mang nhiệt tình của người thầy phương Bắc. Muốn được cưu mang phải nói lời cam kết đền ơn trả nghĩa. Ngày 14-9-1958, qua Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước cam kết chuyển nhượng cho Trung Quốc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Có 3 lý do được viện dẫn trong cam kết này :

a) Vì Hoàng Sa, Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị- Nam Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc trong thời điểm này chỉ là bán da gấu !

b) Sau này, do những tình cờ lịch sử, nếu Bắc Việt thôn tính được Miền Nam thì mấy hòn đảo san hô tại Biển Đông đâu có ăn nhằm gì so với toàn thể lãnh thổ Việt Nam ?

c) Giả sử cuộc "giải phóng Miền Nam" không thành, thì việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hòa cũng có tác dụng làm suy yếu phe quốc gia về kinh tế, chính trị, chiến lược và an ninh quốc phòng.

Kế Hoạch Thôn Tính Biển Đông Của Trung Cộng

Năm 1982, với tư cách ngũ cường thuộc Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, Trung Cộng tham dự Đại Hội Liên Hiệp Quốc Kỳ 3 về Luật Biển và đã hoan hỷ ký Công Ước về Luật Biển. Ký xong Công Ước, Bắc Kinh mới thấy lo ! Theo Công Ước các quốc gia duyên hải chỉ có 200 hải lý, vừa là vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá, vừa là thềm lục địa để khai thác dầu khí. Trong khi đó Hoàng Sa tọa lạc ngoài lục địa Trung Hoa 300 hải lý, và Trường Sa cách Hoa Lục 750 hải lý, nên không thuộc hải phận (thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế đánh cá) của Trung Quốc. Vì vậy, cuối năm 1982, Bắc Kinh tập hợp 400 học giả Trung Hoa ngày đêm nghiên cứu thảo luận ròng rã trong suốt 10 năm, để kết luận rằng "Nam Hải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc từ thời Hán Vũ Đế ". Đó là thái độ võ đoán của phe đế quốc, cũng như Đế Quốc La Mã coi Địa Trung Hải là "biển lịch sử của chúng tôi !" Biển Lịch Sử hay Lưỡi Rồng Trung Quốc nằm sát bờ biển Quảng Ngãi 40 hải lý, cách Nam Dương 30 hải lý, cách Mã Lai và Phi Luật Tân 25 hải lý. Nó bao gồm toàn thể vùng biển Hoàng Sa Trường Sa và chiếm trọn 3 túi dầu khí đang khai thác là Tứ Chính (Vanguard) của Việt Nam, Cỏ Rong (Reed Bank) của Phi Luật Tân và Natuna của Nam Dương. Tuy nhiên về mặt pháp lý, nếu Ấn Độ Dương không phải là đại dương của Ấn Độ, thì Nam Hải cũng không phải là biển của Trung Hoa về phía Nam. Vả lại theo Tòa Án Quốc Tế La Haye, biển lịch sử chỉ là nội hải. Và thuyết Biển Lịch Sử của Trung Quốc đã bị Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển bác bỏ trong Điều 8 : "Biển lịch sử hay nội hải của một quốc gia tọa lạc trong lục địa hay đất liền, bên trong bờ biển hay đường căn bản" (đường căn bản là lằn mức thủy triều xuống thấp). Do đó Biển Nam Hoa hay Nam Hải không phải là Biển Lịch Sử của Trung Quốc vì nó là ngoại hải và cách lục địa Trung Hoa hơn 2000 cây số. Và công trình 10 năm nghiên cứu của 400 học giả Trung Hoa chỉ là công "dã tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì" !

Thất bại trong thuyết Biển Lịch Sử, Trung Cộng đề ra kế hoạch 4 bước để thôn tính Biển Đông về kinh tế :

1) Ký kết Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ để hủy bãi Hiệp Ước Bắc Kinh theo đó Việt Nam được 63% và Trung Hoa được 37% lãnh hải. Ngày nay nếu theo đường trung tuyến, hai bên được chia đều 50%. Tuy nhiên trên thực tế, phe Cộng Sản không theo đường trung tuyến và đã đưa ra 21 điểm tiêu chuẩn phân định theo đó Việt Nam chỉ còn 45%.

2) Ký kết Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá để thiết lập vùng đánh cá chung 60 hải lý. Và trên thực tế Việt Nam chỉ còn 25% tại vĩ tuyến 17 và 32% tại vĩ tuyến 20. Với các tầu đánh cá viễn duyên, với các lưới cá dài 50 hải lý, và nhất là với sự đồng lõa cấu kết của đội tuần cảnh duyên hải, toàn thể Vịnh Bắc Việt sẽ biến thành khu vực đánh cá tự do cho đội kình ngư Trung Quốc mặc sức tận thu, vét sạch, và cạn tầu ráo máng.

3) Từ đánh cá chung đếnhợptáckhaithácdầu khí chỉ còn một bước. Trong Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt có điều khoản quy định rằng, khi dầu khí được phát hiện, hai bên sẽ khởi sự hợp tác khai thác dầu khí. Dầu khí là do các chất hữu cơ kết tụ trong các thủy tra thạch kết tầng dưới đáy biển. Các chất hữu cơ này được nước phù sa sông Hồng Hà từ Vân Nam và sông Cửu Long từ cao nguyên Tây Tạng đổ ra Biển Đông từ cả triệu năm nay. Do đó dầu khí nếu có, là do các chất hữu cơ từ lục địa Việt Nam, chứ không phải từ Hoa Lục. Mặc dầu vậy, tại Vịnh Bắc Việt, Trung Quốc đã đề ra nhiều dự án thăm dò và khai thác dầu khí, như "Dự Án Quỳnh Hải" bên bờ đảo Hải Nam và "Dự Án Vịnh Bắc Bộ" về phía Bắc vĩ tuyến 20. (Khi dùng danh xưng "Vịnh Bắc Bộ", Trung Quốc mặc nhiên nhìn nhận rằng đó là Vịnh của Việt Nam về phía Bắc. Vì nếu là của Trung Quốc thì phải gọi là Vịnh Nam Bộ mới đúng địa lý).

4) Với chính sách vết dầu loang, sau khi thành tựu kế hoạch hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại Bắc Việt, hai bên sẽ tiến tới việc hợp tác đánh cá và khai thác dầu khí chung tại miền duyên hải Trung và Nam Việt. Điều đáng lưu ý là vùng lãnh hải này thuộc khu đặc quyền kinh tế đánh cá và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam nên thuộc chủ quyền tuyệt đối của Việt Nam. Ở đây không có sự trùng điệp hay chồng lấn hải phận như trường hợp Vịnh Bắc Việt. Không ai ngu dại gì cho người nước ngoài đến đánh cá và khai thác dầu khí chung tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng của nước mình. Chiếu Điều 77 Luật Biển, thềm lục địa thuộc chủ quyền tuyệt đối của quốc gia duyên hải. Mọi sự chiếm cứ bất cứ từ đâu tới cũng đều vô hiệu, nhất là chiếm cứ võ trang (trường hợp Trung Cộng dùng võ trang chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa từ năm 1988). Bằng kế hoạch thôn tính 4 bước, Đế Quốc Bắc Phương đã buộc Hà Nội hiến dâng toàn thể lãnh hải Việt Nam từ Vịnh Bắc Việt đến vùng biển Hoàng Sa Trường Sa theo lời cam kết của Hồ Chí Minh (Phạm Văn Đồng chỉ là kẻ thừa sai, bất lực, vô quyền, không có cả quyền bổ nhiệm một thứ trưởng theo lời tự phán của đương sự). Như vậy, thuyết Biển Lịch Sử từng bị Điều 8 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển bác bỏ, nay sẽ trở thành hiện thực do kế hoạch 4 bước của Trung Cộng để thôn tính Biển Đông.

Cách đây hơn 400 năm, giữa thế kỷ 16, để bảo vệ địa vị và quyền lợi, Mạc Đăng Dung để đầu trần, đi chân không, đến quỳ lạy tại Ải Nam Quan dâng 5 động và 1 châu cho Tầu Phong Kiến, và đã bị Lịch Sử kết án là vô liêm sỉ và phản quốc.

Ngày nay, để củng cố địa vị và bảo vệ quyền lợi riêng tư, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã táng tận lương tâm nhượng đất, bán nước, dâng biển cho Tầu Cộng Sản, rồi đây sẽ lưu tiếng xấu đến muôn đời (di xú vạn niên). Do những hành vi cấu kết với nước ngoài nhằm xâm phạm chủ quyền của quốc gia, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc và xâm phạm quyền của quốc dân được sử dụng đầy đủ những tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước, Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ bị Quốc Dân và Lịch Sử kết án là phản quốc.

Làm tại hải ngoại tháng 6 năm 2004
T.M. Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền
Luật Sư NGUYỄN HỮU THỐNG
Giáo Sư NGUYỄN CAO HÁCH

Len a'n dcsvn nhuong dat ba'n nuoc cho ngoai bang

TUYÊN CÁO VÀ LÊN ÁN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NHƯỢNG ĐẤT BÁN NƯỚC CHO NGOẠI BANG
HỘI NGHỊ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ

Thứ Năm 25 tháng ba 2004



HỘI NGHỊ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ
TUYÊN CÁO VÀ LÊN ÁN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NHƯỢNG ĐẤT BÁN NƯỚC CHO NGOẠI BANG

"Nước Việt ta
Vốn xưng văn hiến từ lâu
Sơn hà cương vực đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác"

"Lãnh thổ Việt Nam bất khả phân nhượng"

Những câu trên trong Bình Ngô Đại Cáo và Hiến PhápViệt Nam Cộng Hòa khẳng định rằngViệt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất, lãnh thổ toàn vẹn, không thể phân chia và không thể chuyển nhượng. Vậy mà ngày nay Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phản bội quyền lợi của dân tộc, không bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của quốc gia và đã ký 2 hiệp ước để nhượng đất và bán nước cho ngoại bang. Đó là Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung năm1999, và Hiệp ƯớcVịnh Bắc Bộ năm 2000.

Để phân ranh lãnh thổ và hải phận Bắc Việt, từ thế kỷ 19 Việt Nam và Trung Hoa đã ký Hiệp Ước Thiên Tân và Hiệp Ước Brévié. Hai Hiệp Ước này đã đem lại an ninh và ổn cố từ trên một thế kỷ. Vậy mà ngày nay, bổng dưng vô cớ, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã cùng Trung Cộng mật đàm, mật ước rồi lén lút thông qua và không chịu công bố Hiệp Ước trước quốc dân. Sở dĩ họ phải giấu diếm vì biết rằng đây là những hiệp ước bất công, vi phạm pháp lý và vi phạm đạo lý. Nó đi trái với những hiệp ước và công ước quốc tế hiện hành, như Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và trái với những mục tiêu và nguyên tắc ghi trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, như bình đẳng, hợp tác, hữu nghị, hòa bình, công lý và tự do trong đó có tự do kết ước, không bạo hành, không áp bức, không thôn tính, không lấn chiếm. Ngày xưa Mạc Đăng Dung cắt đất dâng 5 động và một châu cho Tàu phong kiến, và đã bị lịch sử kết án là phản quốc. Ngày nay phe lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã nhượng đất tại 6 tỉnh biên giới và bán nước Biển Đông cho Tàu Cộng Sản, rồi đây sẽ lưu tiếng xấu đến muôn đời. Với đà này trong tương lai, phe lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam sẽ bán nốt Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng. Họ đã lợi dụng sự độc quyền lãnh đạo để độc quyền bán nước. Hành động này vi phạm chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, phản bội quyền lợi của dân tộc và phản bội công lao dựng nước giữ đất của tiền nhân.

VÌ VẬY BẰNG TUYÊN CÁO NÀY

HỘI NGHỊ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ

1) Tố cáo Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhượng đất bán nước cho ngoại bang.

2) Phủ nhận Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung năm 1999 và Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ năm 2000 vì bất công, vi phạm pháp lý và vi phạm đạo lý.

3) Dành cho các chính phủ dân cử tương lai quyền đòi tiêu hủy hai hiệp ước nói trên tại các cơ quan quốc tế có thẩm quyền.

4) Ngăn chặn phe lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam trong mưu toan ký kết hiệp ước Biển Đông để nhượng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng.

5) Kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước kết hợp đấu tranh đòi Dân Tộc Tự Quyết, giải thể chế độ Cộng Sản để giành lại quyền làm chủ quốc gia, làm chủ đất nước. Có như vậy chúng ta mới cứu được nước, cứu được dân và rửa được mối nhục này. Làm tại California ngày 21-3-2004

T.M HỘI NGHỊ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ
BAN THUYẾT TRÌNH VÀ ĐIỀU HỢP
Nguyễn Hữu Thống
Vũ Hữu San
Vương Quốc Quả
Nguyễn Thanh Liêm
Nguyễn Ngọc Quỳnh
Trần Quang An

**********

DECLARATION ON THE VIETNAMESE COMMUNIST LEADERS' CEDING LAND AND SEA WATERS TO CHINA

Per the Great Proclamation on Vanquishing Chinese Invaders :

"Our nation of Vietnam
With her age-old civilization
Her well-defined borders
Is different from the Northern custom"

Per the 1967 Constitution of Vietnam :

"The territory of Vietnam is indivisible and non-transferable." The above quotations affirm that Vietnam is an independent and unified nation with an integral territory, which is non-transferable. Yet nowadays, the Communist leaders of Vietnam have betrayed our national interests. Instead of protecting national sovereignty and territorial integrity, they signed two treaties to cede land and sea waters to China. These treaties were the Sino -Vietnamese Borders Treaty of 1999 and the North -Vietnam Bay Treaty of 2000.

To delimit land borders and sea waters in North Vietnam, since the 19th century, Vietnam and China had signed the Tian Jin Treaty and the Brévié Treaty, which had brought peace and security for over a century. All of a sudden, without apparent reason, the Vietnamese Communist leaders surreptitiously negotiated and signed these 1999 and 2000 treaties with the Communist China. But they failed to promulgate these Treaties. The Communist leaders knew that these treaties were unjust, legally wrong and immoral. They violated international treaties in force, such as the United Nations Convention on the Law of the Sea, and the objectives and principles enunciated in the Charter of the United Nations and the Universal Declaration of Human Rights, such as equality, cooperation, friendship, peace, justice and freedom, including the freedom of negotiation, without violence, oppression, aggression or annexation.

In the 16th century, Mac Dang Dung gave away 5 caves and one district to Feudal China, and was condemned by history as a traitor. At present, the Communist leaders of Vietnam ceded land in six border provinces and sea waters to the Chinese Communists. They will leave an infamy for thousands of years to come. With this pattern of behavior, in the future, who knows the Communist leaders of Vietnam will not sell the Paracels and Spratleys to Communist China ? They have abused the monopoly of leadership to monopolize the sell-out of nation borders. These acts violate our nation sovereignty, prejudice our national interests, and betray our forebears' painstaking nationbuilding.

THEREFORE, PER THIS DECLARATION, WE

1. Denounce the ceding of land and sea waters to China made by the Vietnamese Communist leaders.

2. Deny the Sino-Vietnamese Borders Treaty of 1999 and the North-Vietnam Bay Treaty of 2000 because they are unjust, legally wrong and immoral.

3. Reserve the right for future free-elected governments to demand the abrogation of these treaties by an international authority having jurisdiction over these matters.

4. Oppose the Vietnamese Communist leaders in their scheme to sign another treaty to cede the Paracels and Spratleys Islands to Communist China.

5. Appeal to all compatriots in and out of Vietnam to unite and fight for national self-determination, for the dissolution of communism, for the national sovereignty and territorial integrity. This is the only way to save the country and the people, and to wash out this infamy.

Executed on March 21, 2004, at California
CONFERENCE FOR THE NATIONALTERRITORIAL SOVEREIGNTY

Nguyen Huu Thong
Vu Huu San
Vuong Quoc Qua
Nguyen Thanh Liem
Nguyen Ngoc Quynh
Tran Van An

Toi a'c cua csvn d/v dong bao thieu so tay nguyen va Tin lanh

Lược Duyệt Hồ Sơ Tội Ác Của Cộng Sản VN Đối Với Đồng Bào Thiểu Số Tây Nguyên và Tin Lành
LÊ ĐOÀN VIỆT
Thứ Năm 22 tháng tư 2004



Kể từ khi chính quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) chiếm trọn miền Nam Việt Nam vào năm 1975, hơn 1 triệu người dân sắc tộc thiểu số đã bị dồn vào các "Khu Kinh Tế Mới" (KKTM) mà đa phần là tập trung vào vùng Cao Nguyên Trung Phần và những vùng sâu vùng xa, hiểm trở. Hơn thế, hàng trăm ngàn hộ gia đình người Kinh từ các miền kinh tế khác nhau cũng bị yêu cầu, bắt buộc di dân đến các KKTM để khai hoang, lập nghiệp lại từ đầu trong chính sách tái phân bố dân cư và quy hoạch theo nền kinh tế tập trung kiểu cộng sản cực đoan ngay sau năm 1975. Ngoài hậu quả tai hại của chính sách dồn dân vào các KKTM này đối với người dân miền xuôi nói riêng, người dân các sắc tộc thiểu số như người Thượng (Montagnards) chẳng hạn, nhất là khu vực Tây Nguyên đã bị tác động nặng nề do chính quyền và thành phần người Kinh di dân vào các KKTM gây nên từ sự xâm chiếm đất đai, lấn dân giành đất, phá hoại môi trường và phong tục tập quán truyền thống của người dân thiểu số. Chưa hết, chính sách đàn áp các quyền tự do tôn giáo một cách "có hệ thống" của chính quyền CSVN, từ trung ương đến địa phương, đã đè nặng áp lực tâm lý lên hàng ngàn gia đình người Thượng Tây Nguyên theo Cơ Đốc giáo tại đây. Nỗi bất công và những căm hờn chất chứa trong lòng những người dân thiểu số Tây Nguyên đã âm ỉ lâu nay và chỉ chực chờ đến ngày "bùng nổ". Và ngày đó đã đến... vào tháng 2 năm 2001 khi nhiều cuộc biểu tình của đồng bào Tây Nguyên đã xảy ra với mức độ to lớn nhất kể từ sau năm 1975. Hàng ngàn người thuộc nhiều sắc dân thiểu số khác nhau từ vùng Cao Nguyên Trung Phần (thường được gọi chung với nhau là người Thượng) đã tổ chức hàng loạt các cuộc biểu tình ôn hòa để đòi quyền tự trị, trả lại ruộng đất của họ và quyền tự do tôn giáo.

Dưới đây là một loạt những tội ác điển hình trong khoảng trên dưới 3 năm qua, đặc biệt là trong năm 2003 vừa qua, do chính quyền CSVN gây ra từ những hành động vi phạm nhân quyền, trái pháp luật do chính CSVN ban hành như Bộ Luật Hình Sự của Nước CHXHCN Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/7/2000 hoặc từng ký kết tôn trọng trước Liên Hiệp Quốc như Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (United Nations Universal Declaration of Human Rights, 1948), và Công Ước Quốc Tế của Liên Hiệp Quốc Về Quyền Dân Sự và Chính Trị (United Nations International Covenant on Civil and Political Rights, 1966).

I. Các Tội Xâm Phạm Thân Thể và Cố Ý Gây Thương Tích Đối Với Phụ Nữ

Theo Tổ Chức Montagnard Foundation Inc. (MFI), hơn 1.000 phụ nữ sắc tộc Degar đã bị giới chức Việt Nam buộc phải trải qua phẩu thuật ngừa thai (surgically sterilized) từ năm 1995 đến 2002, và tình trạng đàn áp gia tăng tiếp tục đến năm 2003 khi quân đội CSVN chiếm cứ các làng mạc người Thượng. Nhiều phụ nữ người Thượng đã bị các viên chức chính quyền nhắm tới qua những buổi học tập bắt buộc để yêu cầu họ phải áp dụng phương pháp ngừa thai bằng phẩu thuật. Tổ Chức MFI cho rằng hành động vi phạm nhân quyền này là một phần trong kế hoạch thâm độc, kín đáo của CSVN để diệt chủng sắc dân Degar. Danh sách trên 1.000 phụ nữ này là do MFI lập nên và đã được chuyển cho các tổ chức nhân quyền quốc tế để theo dõi, trong đó có các trường hợp điển hình như sau :
Cô R'mah H'Ayat, sinh năm 1972, tại buôn Plei Thoh Ga, Xã Nhơn Hòa, Huyện Cu Se, Tỉnh Pleiku, đã bị bắt buộc phẩu thuật ngừa thai vào ngày 17/4/2000.
Cô H' Yot Eban và cô H Lam ở tỉnh Dak Lak đều bị bắt buộc phẩu thuật ngừa thai vào ngày 5/8/2001 do bác sĩ Võ Thị Huệ tiến hành.
Một phụ nữ tên Hyon đã làm nhân chứng và báo cáo rằng giới chức VN bắt buộc tất cả phụ nữ trong làng thuộc lứa tuổi sinh con phải qua phương pháp ngừa thai. Lần cuối cùng cô Hyon tham gia vào buổi học tập bắt buộc này là vào tháng 5/2000 trước khi trốn được khỏi VN để định cư tại Hoa Kỳ.
Cô Hbon làm nhân chứng cho rằng chị của mình đã bị bệnh chết vào năm 1997 vì bị bắt buộc ngừa thai và do những hậu quả từ các biến chứng phức tạp sau đó gây nên.

1. Đối với Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các điều sau :
Điều 3 : Quyền được sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.

2. Đối với Công Ước Quốc Tế Về Quyền Dân Sự và Chính Trị, CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các điều sau :
Điều 7 : Quyền không bị tra tấn, đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo, hay trừng phạt bằng cách hành hạ, làm nhục. Đặc biệt, quyền không bị bắt buộc (ngoài ý muốn) tham gia vào các cuộc thử nghiệm về y tế hay khoa học.

3. Chính quyền CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các tội hình sự cụ thể được ghi trong Bộ Luật Hình Sự của chính họ như :
Điều 93 : Tội giết người.
Điều 104 : Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác.
Điều 110 : Tội hành hạ người khác (trong đó có phụ nữ mang thai).

II. Các Tội Bắt Cóc, Giam, Giữ Người Dân


Ngày 18/8/2003, ở buôn Kram, huyện Krong Ana, tỉnh Daklak, Công An bắt cóc Y-Thiep Enuol, sinh năm 1985, và đưa về Buôn Ma Thuột. Gia đình không rõ tình trạng của em này ra sao vì không có sự thông báo từ chính quyền, công an.
Ngày 2/9/2003, cảnh sát VN bắt giam Y-Bem Nie, sinh năm 1972, bởi vì anh theo đạo Cơ Đốc và ủng hộ tổ chức MFI. Anh bị bắt vào lúc 12 giờ đêm tại làng Buon Sut Hluot, huyện Cu Mgar, tỉnh Dak Lak và hiện không ai biết về nơi anh đang bị giam giữ.
Ngày 3/9/2003, cảnh sát VN buộc tội Y-Khiem Nie sinh năm 1971, thuộc làng Buon Map, huyện Cu Mgar, tỉnh Dak lak, vì theo đạo Cơ Đốc và giúp đỡ những người Degar tỵ nạn trốn tránh cảnh sát trong khu vực. Y-Khiem Nie hiện trong tình trạng được coi là mất tích. Vào ngày 9/9/2003, cảnh sát VN bắt giam 4 người Cơ Đốc giáo tại làng Buon Hwing thuộc huyện Cu Mgar, tỉnh Dak Lak. 4 người này bị bắt cóc, giam giữ và mất tích vì chính quyền buộc tội theo Cơ Đốc giáo và tình nghi có giúp đỡ những người Degar lẫn trốn trong khu vực : 1. Y-Ki Nie, sinh năm 1976, 2. Y-Rieng Kboh, sinh năm 1968. 3. Y-Muh Rcam, sinh năm 1968. 4. Y-Bli Rcam, sinh năm 1978.

1. Đối với Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các điều sau :
Điều 3 : Quyền được sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.
Điều 5 : Quyền không bị tra tấn, đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo, hay bị trừng phạt bằng cách hành hạ, làm nhục.
Điều 9 : Quyền không bị bắt, giam giữ hay trục xuất một cách độc đoán, tùy tiện, vô chứng cứ.

2. Đối với Công Ước Quốc Tế Về Quyền Dân Sự và Chính Trị, CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các điều sau :
Điều 2 : Về trách nhiệm của mỗi quốc gia ký tên vào Công Ước phải tôn trọng và thực thi những biện pháp bảo vệ quyền dân sự và chính trị của người dân.
Điều 9 : Quyền tự do và an toàn cá nhân được bảo vệ trước pháp luật trong trường hợp bị bắt giam.
Điều 14, Mục 1 & 2 : Quyền của mỗi công dân được xét xử công bằng trước tòa án, được xem là vô tội cho đến khi chứng minh được là có tội.

3. Chính quyền CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các tội hình sự cụ thể được ghi trong Bộ Luật Hình Sự năm 2000 như :
Điều 123 : Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật.
Điều 124 : Tội xâm phạm chỗ ở của người dân.
Điều 134 : Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.


III. Các Tội Cướp Bóc, Tịch Thu Tài Sản Tư Nhân, Đánh Đập, Tra Tấn, Khủng Bố Người Dân


Ngày 18/8/2003, chính quyền CSVN gởi Thiếu Tá công an Nguyễn Vĩnh Chính và khoảng 100 bộ đội từ tỉnh Dak Lak đến Buôn Yang Reh, huyện Krong Bong, để đàn áp các tín đồ Thiên Chúa giáo Thượng (sắc tộc Degar) ở trong vùng. Họ xông vào nhà của H'Duen Buondap và lục soát mọi nơi. Họ tịch thu các sách Kinh Thánh và các sách thánh ca tìm thấy ở trong nhà và chiếm luôn 150.000 đồng tiền VN.
Ngày 20/8/2003, Thiếu tá công an Nguyễn Văn Phúc, thuộc huyện Buon Đôn, tỉnh Dak Lak, bắt giữ và đánh đập nặng nề Y-Lum Buon Ya, sinh năm 1983, lúc 7 giờ sáng ở Buon Cour Knia, huyện Buon Đôn. Y-Lum bị công an buộc tội nuôi dưỡng một người tỵ nạn tên là Y-Kre Buon Ya đang lẫn trốn ở trong vùng. Khi mẹ của anh Y-Lum tìm đến thăm anh tại khám đường Buôn Ma Thuột thì nhìn thấy con mình mặt mày bị đánh sưng húp, không nhìn thấy mắt. Hiện nay bà cũng không biết chính quyền VN đã di chuyển Y-Lum Buon Ya đi đâu.
Ngày 21/8/2003, 30 bộ đội và 10 sĩ quan công an CSVN - biệt danh Tổ 113 - bao vây nhà của Y-Pho Eban, ở Buôn Cuoi để bắt và bỏ tù anh ta vì tình nghi anh ta nuôi dưỡng những người tị nạn đang lẫn trốn ở trong vùng. Lúc bấy giờ là nửa đêm, vợ và con của anh ta khóc la khiến cho dân làng phải thức giấc. Sau đó, bộ đội và công an bắt đầu đánh Y-Pho và gia đình của anh bằng súng AK-47 và roi điện. Tên của gia đình nạn nhân bị đánh đập và tra tấn bằng roi điện được liệt kê như sau : 1. Bà H'Luin Eban, sinh năm 1970, đang có thai, 2. Y-Chui buon Krong, sinh năm 1982, 3. Y-Kun Buondap, sinh năm 1992. Cùng lúc đó, dân trong làng đã phải thức giấc và kéo nhau đến tận hiện trường, đập phá chiếc xe của công an (biển số #47C2133). Do đó, bộ đội và công an đã đành rút lui khỏi làng đêm hôm đó. Nhưng sáng hôm sau (22/8/2003), chính quyền gởi đến 3 quân xa, chở đầy bộ đội và công an đến Buon cuoi để bắt tất cả dân làng ở trong làng đem đi. Cho đến nay vẫn chưa có được thêm tin tức nào về ngôi làng này.

Ngày 15/9/2003, vào lúc 10 giờ sáng, 2 chiếc xe Jeep chở cảnh sát VN từ huyện Mang Yang đến bắt giữ, đánh đập và tra tấn 8 tín đồ Cơ Đốc người Degar trong lúc diễn ra buổi lễ cầu nguyện tại nhà của ông Oai thuộc buôn Bong Mor, xã Ayun, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai. 8 nạn nhân này (theo danh sách ghi rõ của MFI) đã bị đánh đập trên đường đến nhà tù. Nạn nhân Oai cũng bị đánh đập, hành hạ nặng nề, có lúc bị bất tỉnh. Các nạn nhân khác đá, đấm, bị giựt bằng roi điện để tra tấn. Sau đó 2 ngày họ được thả ra (17/9/2003) nhưng những vết thương và vùng bị đánh đau vẫn còn, không đi đứng được để làm việc. (Theo Tổ Chức MFI)

1. Đối với Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các điều sau :
Điều 3 : Quyền được sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.
Điều 5 : Quyền không bị tra tấn, đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo, hay bị trừng phạt bằng cách hành hạ, làm nhục.
Điều 17 : Quyền làm chủ tài sản và không bị cướp đoạt tài sản.

2. Đối với Công Ước Quốc Tế Về Quyền Dân Sự và Chính Trị, CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các điều sau :
Điều 2 : Về trách nhiệm của mỗi quốc gia ký tên vào Công Ước phải tôn trọng và thực thi những biện pháp bảo vệ quyền dân sự và chính trị của người dân. Điều 7 : Quyền không bị tra tấn, đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo, hay trừng phạt bằng cách hành hạ, làm nhục. Đặc biệt, quyền không bị bắt buộc (ngoài ý muốn) tham gia vào các cuộc thử nghiệm về y tế hay khoa học.

3. Chính quyền CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các tội hình sự cụ thể được ghi trong Bộ Luật Hình Sự năm 2000 như :
Điều 84 : Tội khủng bố.
Điều 103 : Tội đe dọa giết người.
Điều 104, Điều 106, 107 : Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác...
Điều 129 : Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Điều 133 : Tội cướp tài sản.
Điều 135 : Tội cưỡng đoạt tài sản.
Điều 136 : Tội cướp giật tài sản.
Điều 338 : Tội quấy nhiễu nhân dân.
Điều 342 : Tội chống loài người (Tội ác chống nhân loại).


IV. Các Tội Vu Khống, Đàn Áp Tôn Giáo, Tín Đồ, Mục Sư Tin Lành


Ngày 29/12/2003, Thẩm phán Võ Thanh Bửu Tịnh thuộc Tòa Án Nhân Dân quận 11 tại Sài Gòn đã ký quyết định đưa ra tòa xử Mục sư Bùi Văn Ba vào ngày 13/1/2004 với tội danh gọi vu khống là "Chống người thi hành công vụ" vì đã đả thương 2 công an thuộc phường 3 - quận 11 vào ngày 18/8/2003. Ủy Ban Pháp Luật/Hiệp Hội Thông Công Tin Lành Việt Nam đã phổ biến bản báo cáo tổng quát tường thuật mọi việc đã xảy ra ngày 18/8/2003 để phản đối những lời cáo buộc đầy vu khống được ghi trong bản cáo trạng nói trên.

Ngày 1/7/2000, chính quyền CSVN đã trắng trợn đàn áp tự do tôn giáo trong nước, cho Công an và cán bộ địa phương áp đão phá hủy, giật xập ngôi nhà thờ phượng Chúa của đồng bào Tin Lành tại đường Trần Não, phường Bình An, Quận 2 thuộc thành phố Sài Gòn. Trong nhiều năm qua, chính quyền đã tìm mọi cách ngăn cấm các sinh hoạt tôn giáo của các Hội Thánh Tin Lành. Các tín đồ thường xuyên bị bắt bớ, đánh đập và giam cầm vì không chịu bỏ đạo dưới áp lực của nhà cầm quyền. Nạn nhân bị truy bức nặng nề đậc biệt là các sắc dân thiểu số, nhưng gần đây cũng đã được báo động gia tăng ở khắp các tỉnh thành phố, như vụ khủng bố tín đồ ở Quảng Ngãi, các vụ phá xập nhà thờ Dak-La làng Thổ Sơn và ngôi giáo đường làng Đồng Tâm tại Sông Bé.... từ hồi cuối năm 1999. Riêng tại địa bàn Thủ Thiêm (trước năm 1998 thuộc huyện Thủ Đức, từ tháng 2/1998 được chia lại thuộc Quận 2 mới) Hội thánh Tin Lành tại đây đã thường xuyên bị gây khó dễ và chính quyền CSVN đã tìm mọi cách ngăn cấm tín đố Tin Lành nhóm họp thờ phượng chúa. Thánh Kinh và Thánh ca bị tịch thu, từng cá nhân trong Ban trị sự Hội Thánh như Ms Trương Văn Ngành, Tín đồ Lê Thy Lam, Trần Thế Thiện Phước... thường xuyên bị mời lên công an thẩm vấn với lý do nhóm họp đạo Tin Lành Thờ phượng trái phép. (Theo tài liệu của Mục sư Nguyễn Hồng Quang).

"...Liên tục trong suốt tháng 7/2002, công an xã Phú Lý vùng Kinh Tế Mới Trị An đã khủng bố, đàn áp, bắt giữ Mục sư Nguyễn Đặng Chí, không cho giảng đạo tại nhà nguyện Phú Lý. Lần đầu tiên, công an ra mặt ngăn cản không cho mục sư Chí giảng đạo và bắt giam mục sư giữa đêm khuya ngày 6/7/2002. Sau đó công an đành phải thả mục sư Chí ra sau 24 giờ giam giữ. Sự việc lại tái diễn vào một tuần sau đó hôm 14/7/2002 khi mục sư Chí không chịu từ bỏ công việc giảng đạo. Sáng Chúa nhật 21/7/2002, công an lại bắt mục sư Chí cùng hai anh em khác và ra lệnh giải tán nơi thờ phượng Chúa. Tín hữu Tin Lành một lần nữa lại kéo đến phòng công an xã để đòi thăm và tiếp tế cho mục sư đang bị nhốt trong xà liêm. Vào rạng sáng 28/7/02, hàng tá công an đã mai phục xung quanh Hội Thánh Phú Lý. Vừa lúc mục sư Chí đến trước ngõ nhà nguyện, khoảng vài chục công an bên ngoài và một số khác ngồi lẫn lộn với tín hữu ngay trong nhà nguyện cũng túa ra và áp tải mục sư Chí lên văn phòng công an xã Phú Lý. Công an muốn tịch thu cuộn phim và bức hình chụp mục sư Chí khi bị giam trong xà lim tuần trước (bức ảnh này đã được loan đi trên mạng thông tin toàn cầu). Sau đó mục sư Chí được thả vào lúc 13 giờ chiều cùng ngày, nhưng đến tối thì mục sư đã bị lên cơn tim. Cho đến nay, mục sư Chí đã bị bắt tất cả 4 lần và các tin thông báo nói rằng mục sư đã bị viên chức nhà nước mắng chửi, hăm dọa và làm nhục nhiều lần." (Theo tín đồ từ Đồng Nai). "...Mục sư Nguyễn Đặng Chí đã bị giữ giấy tùy thân, bị phạt tiền nhiều lần. Tháng 5 và tháng 6 năm 2002 chính quyền cấp xã Phú Lý, cấp huyện Trảng Bom, và cấp tỉnh Đồng Nai đã nhiều lần hăm dọa, gởi giấy gọi mục sư Chí lên tra hỏi liên tục." (Theo tin của tờ Viễn Đông Kinh Tế FEER, 25/7/2002).

"...Ngày 18/8/2003, khoảng 25 mục sư, tín đồ thuộc Giáo Hội Phúc Âm Trọn Vẹn Việt Nam tụ tập cầu nguyện tại nhà Mục Sư Bùi Văn Ba ở số 161D/51 Lạc Long Quân, phường 3, quận 11, Sài Gòn. Vào lúc 9 giờ 30 sáng, cảnh sát khu vực Trần Văn Nhê cùng với lực lượng công an P3Q11 đến đòi lục soát nhà của ông Ba. Vợ ông Ba là bà Đổng thị Ngọc May ngăn cản, nói là ông Ba đi vắng nhưng công an bất chấp và dùng vũ lực hành hung khiến bà lên cơn đau tim. Sau đó lực lượng công an đã tràn lên lầu, vào nơi cầu nguyện hành hung các mục sư và tín đồ. Khi Mục sư Ba về nhà, thấy vợ trong tình trạng nguy kịch, ông cùng với Mục Sư Nguyễn Như Hạnh quyết tâm đưa bà May đi bệnh viện. Công an cương quyết ngăn cản và xảy ra cuộc ẩu đả. Những người bị đàn áp đã chống trả quyết liệt. Sau đó công an áp tải hai Mục Sư Ba và Mục Sư Hạnh về đồn công an tra tấn, ra lệnh tạm giam 3 ngày tại trại giam ở số 83 đường Tân Hóa, quận 11. Công an đã tách hai người ra riêng, giam ở phòng thuộc khu hình sự. Họ bắt hai ông cởi hết quần áo, chỉ còn quần lót và nằm trên sàn lạnh. Ngoài hai nạn nhân này, công an còn bắt 7 người khác đưa về đồn thẩm vấn đến 9giờ tối thì thả ra, kèm theo biên bản phạt hành chánh. Tối ngày 19/8/2003, vào lúc 11 giờ đêm, lệnh tạm giam được đổi thành quản thúc tại gia và hai mục sư bị áp tải về nhà..." (Theo báo cáo của Ủy Ban Pháp Luật/Hiệp Hội Thông Công Tin Lành Việt Nam).

Theo tin tức của Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do, trong những ngày cuối năm 2003, chính quyền CSVN đã lợi dụngthờigian diễn ra các cuộc tranh tài thể thao SEA Games để đàn áp các nhà truyền giáo đạo Tin Lành. Những nguồn tin này cho biết công an đã tông xe môtô vào xe của Mục sư Nguyễn Hồng Quang, Phó hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Mennonite Việt Nam, sau khi Mục sư Quang có cuộc gặp với bà Jean Geran, nhân viên văn phòng nhân quyền và quyền lao động thuộc lãnh sự quán Mỹ ở Sài Gòn. Công an cũng đã dùng roi điện đánh đập và dí súng vào đầu Thầy Truyền Đạo Phạm Ngọc Thạch, người đi chung với Mục sư Quang. Trong những ngày này, công an cũng bắt giữ ít nhất 16 mục sư và tín đồ Tin Lành ở Sài Gòn và Hà Nội. Những người không may bị bắt lúc đang phân phát lịch thi đấu Sea Games có in kèm lời giảng thánh kinh và những lời phát biểu của các vận động viên quốc tế đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Trong số những người bị bắt có 2 mục sư Trần Mai và Lê Quang Sơn. Hiện không rõ hai mục sư vừa nói đang bị giam giữ ở đâu.

Ngày 16/3/2004, một tổ chức nhân quyền của Hoa Kỳ cho biết, theo lời khai của một nạn nhân thì người thiểu số sắc tộc Hmong theo đạo Cơ Đốc tại Việt Nam đã bị buộc phải chích thuốc gây đau nhức để thuyết phục họ từ bỏ tín ngưỡng. Theo tin của AFP, Trung Tâm Tự Do Tôn Giáo có cơ sở tại Hoa Kỳ cho biết tổ chức đã nhận được một bức thư đề ngày 30/1/2004 cho biết chi tiết về sự đau khổ của người Hmong theo đạo Cơ Đốc tại làng Na Ling ở tỉnh Lai Châu. Tác giả bức thư là Zong Xiong Hang, một người Hmong theo đạo Cơ Đốc bị buộc phải bỏ làng chạy trốn qua tỉnh Sơn La, mô tả việc bộ đội CSVN đã sử dụng thuốc tiêm gây đau nhức để buộc ông không tin vào chúa Giê-Su. Trong một thông cáo kèm theo bản dịch tiếng Anh bức thư của ông Zong, Giám đốc Trung Tâm Tự Do Tôn Giáo, bà Nina Shea nói rằng, việc chích thuốc gây đau nhức là một sự vi phạm thô bạo vào phẩm giá con người, và hình thức tra tấn này đã được một số chế độ xấu xa nhất sử dụng, như Đức quốc xã và liên bang Sô Viết.

1. Đối với Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các điều sau :
Điều 12 : Quyền không bị xâm phạm đời tư, gia thất, hay vu khống, bôi nhọ.
Điều 18 : Quyền tự do tư tưởng và tôn giáo.
Điều 20 : Quyền tự do hội họp và tham gia hội đoàn.

2. Đối với Công Ước Quốc Tế Về Quyền Dân Sự và Chính Trị, CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các điều sau :
Điều 2 : Về trách nhiệm của mỗi quốc gia ký tên vào Công Ước phải tôn trọng và thực thi những biện pháp bảo vệ quyền dân sự và chính trị của người dân.
Điều 7 : Quyền không bị tra tấn, đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo, hay trừng phạt bằng cách hành hạ, làm nhục. Đặc biệt, quyền không bị bắt buộc (ngoài ý muốn) tham gia vào các cuộc thử nghiệm về y tế hay khoa học.
Điều 9 : Quyền tự do và an toàn cá nhân được bảo vệ trước pháp luật trong trường hợp bị bắt giam.
Điều 17 : Quyền không bị xâm phạm đời tư, gia thất, hay vu khống, bôi nhọ.
Điều 18 : Quyền tự do tư tưởng và tôn giáo.
Điều 21 : Quyền tự do tụ tập ôn hòa trong một xã hội dân chủ.
Điều 22 : Quyền tự do liên đới, lập hội để tự bảo vệ quyền lợi.

3. Chính quyền CSVN đã vi phạm ít nhất là (nhưng không giới hạn ở) các tội hình sự cụ thể được ghi trong Bộ Luật Hình Sự năm 2000 như :
Điều 104, 106, 107 : Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác...
Điều 121 : Tội làm nhục người khác.
Điều 122 : Tội vu khống.
Điều 123 : Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật.
Điều 124 : Tội xâm phạm chỗ ở của người dân.
Điều 129 : Tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Điều 338 : Tội quấy nhiễu nhân dân.

Tạm Kết

Những cuộc biểu tình trong tháng 2/2001 của đồng bào thiểu số Tây Nguyên đã cho thấy những hậu quả nghiêm trọng từ nhiều nỗi bất công dồn nén trong lòng người dân thiểu số : tình trạng đàn áp tôn giáo, phân biệt sắc tộc, nghèo đói và thiếu sự chăm lo về giáo dục của nhà nước CSVN, nhưng có lẽ quan trọng hơn hết là cuộc tranh đấu đòi lại đất đai của người thiểu số đã bị cướp đoạt hoặc tranh giành. Chính quyền CSVN tiếp tục chính sách kiềm kẹp đồng bào thiểu số và ngăn chặn tất cả những tổ chức, quốc gia bên ngoài đến tìm hiểu và theo dõi tình hình. Các tổ chức nhân quyền quốc tế như Tổ Chức Quan Sát Nhân Quyền (Human Rights Watch), Ủy Hội Quốc Tế của Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo (US International Commission for Religious Freedom) và Hội Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International) đều có những thông báo và lên tiếng về tình trạng đàn áp tôn giáo đối với đồng bào thiểu số tại Tây Nguyên. Những tài liệu thu thập được ở trên về tình trạng đàn áp đồng bào thiểu số và tín đồ Tin lành cũng chỉ là những ghi nhận tóm lược, với một số trường hợp điển hình cụ thể chứ không hoàn toàn đầy đủ và khoa học như mong muốn. Nhưng hy vọng rằng, tài liệu này sẽ giúp chúng ta có dịp tìm hiểu về thảm nạn và những nỗi khổ đau của đồng bào thiểu số và các tín đồ tôn giáo tại Việt Nam, đồng thời nhìn kỹ ra được những tội ác vi phạm nhân quyền mà chính quyền và Đảng CSVN đã và đang gây ra đối với người dân thiểu số và đồng bào ta nói chung trong nhiều thập niên qua !

Lê Đoàn Việt

Ca'o trang ve Toi a'c cua csvn d/v PGHH

BẢN CÁO TRẠNG VỀ TỘI ÁC CỦA CSVN ĐỐI VỚI PGHH

--------------------------------------------------------------------------------

Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Tuý 9/15/2006

--------------------------------------------------------------------------------

Giáo Hội Trung Ương PHẬT GIÁO HÒA HẢO

Số 1301/BCT/TƯ Thuần Tuý





BẢN CÁO TRẠNG
VỀ TỘI ÁC CỦA CSVN ĐỐI VỚI PGHH


š]›



Xuyên suốt 60 năm qua 2 thời kỳ: Thời kỳ 1 (1945-1975) và thời kỳ 2 (1975-2006), Cộng Sản Việt Nam (CSVN) vẫn quyết tâm chủ trương tiêu diệt PHẬT GIÁO HÒA HẢO (PGHH) vì PGHH là một tôn giáo mang bản chất đặc thù dân tộc, sinh ra từ lòng dân tộc, lớn lên trong khí thiêng sông núi Tổ quốc, với pháp môn Học Phật Tu Nhân “ ĐỜI ĐẠO LIÊN QUAN RẠNG CHÓI NGỜI” . . . sống vì dân tộc và Đạo Pháp, chết cũng vì Đạo Pháp và dân tộc, tất nhiên là khắc tinh của CSVN, hiện thân của cộng sản quốc tế: Vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo . . .

- Thời kỳ 1 (1945-1975):

Sau đảo chánh Pháp (1945) Đức Huỳnh Phú Sổ, Giáo Chủ PGHH là một ngôi sao sáng trên chính trường Nam Bộ VN, tạo thêm một lo ngại nghiêm trọng cho Việt Minh (VM) trên con đường xích hóa VN. Cho nên VM phải quyết tâm trừ khử cho được Đức Huỳnh Giáo Chủ bằng mọi âm mưu, thủ đoạn.

Đêm 9-9-45, Trần Văn Giàu, thủ lĩnh VM ở Nam Bộ, xua hằng trăm công an (CA) đến bao vây văn phòng của Đức Huỳnh Giáo Chủ tại đường Miche (Sàigòn) để ám hại Ngài, nhưng chúng thất vọng vì không tìm gặp được Ngài, trong lúc Ngài vẫn có mặt tại văn phòng.

Sau đó, Đức Huỳnh Giáo Chủ phải lánh mặt để tránh một cuộc xung đột tương tàn, “người Việt giết người Việt” làm lợi lớn cho quân thù, vì lúc đó quân xâm lược Pháp đã chánh thức tái xâm lăng VN . . . trong lúc Đức Huỳnh Giáo Chủ có hơn 1 triệu tín đồ sẵn sàng hy sinh theo mạng lệnh của Ngài, nếu có cuộc đối đầu với VM.

Sau khi Đức Huỳnh Giáo Chủ lánh mặt, VM thẳng tay tàn sát PGHH. Hằng trăm cán bộ PGHH bị VM xử tử công khai, đại thể như qúy ông: Huỳnh Phú Mậu (bào đệ Đức Huỳnh Giáo Chủ), Trần Ngọc Hoành, Thi Sĩ Việt Châu, Tú Tài Trần Nguyên Thiều, Bác sĩ Trần Văn Tâm, Võ Tăng Sâm, Nguyễn Văn Hay, Nguyễn Văn Ngàn, Huỳnh Văn Công, Huỳnh Văn Kích, .v.v . . . hằng vạn . . . vạn nhân sĩ, tín đồ PGHH bị VM thủ tiêu một cách dã man nhất trong lịch sử loài người . . . và cụ Lê Quang Liêm cũng là một tử tội chờ ngày hành quyết, nhưng vì Pháp đổ bộ đánh chiếm Lấp Vò, Vàm Cống, VM bỏ chạy nên cụ Liêm thoát chết.

Hạ bán niên năm 1946, quân xâm lược Pháp đã tái chiếm gần hết các địa điểm xung yếu ở Nam Bộ, Chủ Tịch Hồ Chí Minh phải kêu gọi toàn dân đoàn kết để chống quân thù chung và phái nhiều đại diện đến gặp Đức Huỳnh Giáo Chủ yêu cầu Ngài tham chánh, điển hình là ông Phạm Thiều đã tiếp xúc với Đức Huỳnh Giáo Chủ nhiều lần.

Vì quyền lợi của Tổ quốc, Đức Huỳnh Giáo Chủ chấp nhận tham chánh và đây là lời tuyên bố chánh thức của Ngài:



1)- Để cho quốc dân và chánh phủ thấy rằng chúng tôi chủ trương thống thất lãnh thổ và độc lập quốc gia.

2)- Để biểu dương tinh thần đoàn kết của dân tộc hầu mau đem đến thắng lợi cuối cùng.

3)- Để tỏ cho các đảng phái thấy rằng chúng tôi không khi nào vì hiềm riêng mà hờ hững với phận sự cứu quốc.

Thế mà, trước tấm lòng yêu nước chân thành và cao cả đó của Đức Huỳnh Giáo Chủ, Việt Minh lại nhẫn tâm ám hại Ngài, lần thứ 2, một cách vô cùng hèn hạ vào ngày 17-4-1947 nhằm 25-2 nhuần năm Đinh Hợi tại rạch Đốc Vàng Hạ( trước kia thuộc tỉnh An Giang, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp).

Rồi . . . suốt một thời gian dài 28 năm(1947-1975) Việt Minh-Cộng Sản (VMCS) tiếp tục theo đuổi chủ trương “trảm thảo trừ căn”, tiêu diệt PGHH trong mọi tình huống, trong mọi môi trường, trong mọi cơ hội có thể được.

Hiện nay, còn những mộ chôn tập thể những nạn nhân PGHH bị VM giết hại, đại thể như tại xã Phú Thuận (Đồng Tháp) một ngôi mộ với 467 thi hài, tại Trường Long, Trường Thành, Lôi Tự (Cần Thơ), mỗi ngôi mộ có hằng trăm thi hài, .v.v. . .



Thời kỳ 2 (1975-2006):

a)- Sau ngày 30-4-1975, cưỡng chiếm được Miền nam, CSVN nắm trọn quyền sinh sát trong tay, thì lại càng thẳng tay tiêu diệt PGHH một cách trắng trợn nhất. Những ngày đầu, một số nhân sĩ PGHH bị xử tử công khai, đại lược như Dân Biểu Huỳnh Văn Lầu, Huỳnh Công Thiện .v.v. . . một số bị thủ tiêu không dấu vết, một số hằng trăm cán bộ PGHH bị tù đày, nhiều người đã chết trong khổ sai, ngục lạnh . . .hàng ngàn gia đình bị tịch thu tài sản, nhà tan của nát . . .

b)- Về phần Giáo Hội PGHH thì hoàn toàn bị cấm hoạt động, mọi công tác giáo sự dù lớn dù nhỏ đều bị cấm chỉ, tín đồ không được tụ họp quá 5 người. Tài sản Giáo Hội PGHH bị tịch thu toàn diện, cho đến nay (2006) vẫn chưa trả lại một miếng ngói, một viên gạch. Đặc biệt là ngôi đền thờ chánh của PGHH tại thủ đô Việt Nam Cộng Hòa, số 114 Bùi Thị Xuân (Sàigòn), nhà cầm quyền CSVN dùng quyền lực tịch thu một cách phi luật pháp rồi cho một số tư nhân mướn để biến ngôi đền thờ này thành một điểm thế tục, đồi bại, ô hợp bừa bãi với những trò: Chơi bi da, bán hủ tiếu, bán đồ tạp nhạp, thậm chí còn tổ chức những cuộc mãi dâm trá hình, .v.v. . .

Đây là một minh chứng về tội ác của CSVN, quyết tâm tiêu diệt PGHH bằng mọi thủ đoạn, mọi âm mưu, bất luận hình thức nào, môi trường nào, trắng trợn lăng nhục danh dự PGHH, trắng trợn chà đạp lên lòng tín ngưỡng thiêng liêng của 5 triệu công dân tín đồ PGHH, bất chấp đạo lý tình người và người.

Sấm Giảng PGHH thì bị triệt để cấm sử dụng, tụng đọc, phổ biến, việc lễ bái thường nhật của tín đồ cũng bị nhà cầm quyền gây khó khăn đủ điều để người tín đồ không còn hành sử được quyền tín ngưỡng tối thiểu của mình.

c)- Về văn hóa, tư tưởng PGHH thì nhà cầm quyền CSVN “bật đèn xanh” cho những tay “bồi bút nô dịch” tha hồ sáng tác những sách báo, tư liệu mang nội dung đả kích, bôi nhọ giáo lý PGHH và danh dự Đức Huỳnh Giáo Chủ một cách đê hèn nhất, đại lược như là quyển Sư Thúc Hòa Hảo, tư liệu Sau Bức Màn Hư Aûo, tư liệu Người Tín Đồ Hòa Hảo cần biết, quyển Dòng Sông Thơ Ấu ( chuyển thể thành phim), v.v. . .

d)- Về ngày lễ 25-2 âl. Kỷ niệm ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ bị VM ám hại tại rạch Đốc Vàng (Đồng Tháp) năm 1947 thì nhà cầm quyền CSVN triệt để cấm tín đồ PGHH tổ chức ngày lễ này, nhằm bưng bít lịch sử về tội ác của CSVN đối với một nhà chí sĩ yêu nước chân chính, đối với PGHH là một tôn giáo dân tộc, biểu hiện một chủ trương trơ trẽn, phi nhân bất nghĩa của CSVN giữa một xã hội loài người đang tiến nhanh đến cực điểm văn minh như hiện nay.

Trước chủ trương, áp lực sắt máu của CSVN quyết tâm tiêu diệt PGHH, cụ Lê Quang Liêm và khối tín đồ PGHH đã hy sinh cả sanh mạng lẫn tài sản để theo đuổi một cuộc tranh đấu quyết liệt, một còn một mất, để bảo tồn Đạo Pháp và bảo tồn đời sống tâm linh với mọi giá phải trả:

1)- Cụ Lê Quang Liêm bị cầm tù 5 năm và 1 năm quản chế (1975-1981) và bị quản chế lần thứ 2: 4 năm (2001-2005).

2)- Ông Lê Văn Tính, cựu Dân biểu VNCH, một cán bộ thân tín của cụ Lê Quang Liêm, hoạt động ngoài nước bị nhà cầm quyền Campuchia bắt tại Siêm Rệp ngày 25-1-1995, giải về VN bị kết án tù 20 năm khổ sai, đang bị thọ hình ở trại giam Xuân Lộc.

3)- Ông Bùi Tấn Nhã, một cán bộ thân tín của cụ Lê Quang Liêm bị nhà cầm quyền CSVN thành phố Hồ Chí Minh bắt ngày 13-7-1997 và bị án tù chung thân khổ sai, hiện đang thọ hình ở trại giam Xuân Lộc.

4)- Ngày 28-3-2000, một số cán bộ cốt lõi của PGHH bị nhà cầm quyền CSVN bắt trong một chiến dịch càn quét PGHH, đại thể như là: Oâng Lê Minh Triết, Trần Nguyên Huởn, Võ Văn Bửu, Nguyễn Châu Lang, Trương Văn Thức, Trần Văn Bé Cao, Lê Văn Nhuộm .v.v. . . mỗi người bị kết án từ 3 năm đến 5 năm tù.

---------------------

Trước sức đối kháng quyết liệt của cụ Lê Quang Liêm và khối tín đồ PGHH và trước xu thế thời đại lịch sử của thế giới về Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo đang lan mạnh khắp năm châu, bốn bể, CSVN xét thấy không thể tiêu hiệt PGHH bằng bàn tay “ đầy máu lửa” của chính mình, nên CSVN áp dụng sách lược mới: “ném đá giấu tay” . . . dàn dựng một Ban Đại Diện PGHH tay sai gồm 11 Đảng Viên CS để tiếp tục tiêu diệt PGHH.

Ngay ngày ra mắt (26-5-1999) Ban Đại Diện PGHH Quốc Doanh này chánh thức công bố Bản Quy Chế PGHH, trắng trợn:

a)- Hủy bỏ hệ thống Giáo Hội PGHH là hệ thống lãnh đạo PGHH do Đức Huỳnh Giáo Chủ thành lập từ năm 1945.

b)- Hủy bỏ Đạo Kỳ (lá cờ dà) là biểu tượng thiêng liêng của PGHH đã do xương trắng máu đào của không biết bao anh hùng liệt sĩ PGHH bồi đắp mới được tung bay phất phới đến ngày nay.

c)- Cắt xén 80% Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý PGHH là khuôn vàng thước ngọc do chính tay Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng tác lưu lại cho tín đồ tu học.

d)- Hủy bỏ không đòi lại tài sản Giáo Hội PGHH do nhà cầm quyền CSVN cưỡng đoạt từ sau ngày 30-4-1975.

e)- Hủy bỏ ngày Đại Lễ 25 tháng 2 âl, kỷ niệm ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ bị VM ám hại tại Đốc Vàng năm 1947.

.v.v . . . và v.v. . . .

Nhận định về hành động này ai cũng có thể thấy rõ cái âm mưu thâm độc và gian ác của CSVN là quyết tâm tiêu diệt PGHH bằng mọi âm mưu, thủ đoạn, mọi hình thức dù đê tiện đến đâu . . . và rõ ràng rằng nếu PGHH lâm vào một thảm trạng như vầy là PGHH không còn là một tôn giáo trên mặt hình thức và danh nghĩa nữa, đương nhiên bị xoá tên trong lịch sử tôn giáo.

---------------------

Từ sau ngày Ban Đại Diện quốc doanh ra đời, tất nhiên gặp phải sự chống đối quyết liệt của cụ Lê Quang Liêm và khối tín đồ PGHH Thuần Tuý nên nhà cầm quyền CSVN phải tận dụng mọi khả năng trấn áp khủng bố một cách nghiệt ngã nhất đối với khối tín đồ PGHH Thuần Tuý nhằm mục đích ủng hộ cái “quái thai của thời đại”, đứa con hoang èo uột của chế độ độc tài toàn trị (Ban Đại Diện PGHH Quốc Doanh), và từ thời điểm này, PGHH có hai cơ cấu lãnh đạo: PGHH Quốc Doanh, tay sai của CSVN, và PGHH Thuần Tuý do cụ Lê Quang Liêm lãnh đạo.

---------------------

Trong dịp Tổng thống Bill Cliton sang VN, nhà cầm quyền CSVN muốn phô trương một hình ảnh “an bình giả tạo” nên đã mở những chiến dịch trấn áp, càn quét thành phần đối lập, Ông Hà Hải, Chánh Thơ Ký Giáo Hội Trung Ương PGHH (do cụ Lê Quang Liêm lãnh đạo) bị Công An (CA) bắt ngày 19-11-2000 rồi kết án tù 5 năm khổ sai và đày đi trại giam Xuân Lộc, rồi vì bị hành hạ, đối đãi khắc nghiệt nên mắc bệnh lao phổi mà chết.

---------------------

Nhân ngày lễ năm thứ 54, Kỷ Niệm Đức Huỳnh Giáo Chủ bị VM ám hại nhằm vào ngày 25 tháng 2 năm Tân Tỵ (18-3-2001), để biểu dương tinh thần kiên cường bất khuất đối với bạo lực bạo quyền CSVN, cụ Lê Quang Liêm và khối tín đồ PGHH Thuần Tuý quyết định tổ chức một cuộc “biểu tình ôn hòa” tại TP.Hồ Chí Minh với số tín đồ từ các tỉnh “kín đáo” kéo về khoảng 500 người.

Cuộc biểu tình bị phát hiện, cụ Lê Quang Liêm bị công an trá hình bắt cóc tại công viên Lê Văn Tám, đường Hai Bà Trưng (Sàigòn) vào lúc 4 giờ sáng ngày 17-3-2001, và hằng trăm tín đồ, cán bộ PGHH bị bắt từ các nẽo đường vào TP.HCM, với nhiều biểu ngữ, truyền đơn . . .

Ngày lễ 25-2 âl hằng năm kỷ niệm Đức Huỳnh Giáo Chủ bị VM ám hại là một ngày lễ mang tính trọng đại và thiêng liêng nhất đối với hơn 5 triệu công dân tín đồ PGHH mà suốt 25 năm dài (1975-2001) nhà cầm quyền CSVN triệt để cấm người tín đồ PGHH tổ chức. Đã có hằng trăm tín đồ PGHH bị tù đày, bị quản chế vì dám đòi hỏi, hay tự động tô chức ngày lễ này mặc dù hết sức đơn giản trong phạm vi gia đình, năm bảy người . . .

Sau khi bị bắt, cụ Lê Quang Liêm tuyên bố tuyệt thực cho đến chết và không trả lời bất luận một câu thẩm vấn nào của nhà cầm quyền CSVN và cụ đặt vấn đề: “Nhà cầm quyền CSVN phải trả lời trước về lý do vì sao công an bắt cóc cụ, một công dân già 82 tuổi và giải thích tại sao không cho tổ chức ngày lễ 25-2 âl ? rồi sau đó muốn thẩm vấn đều gì cũng được. Tất nhiên là CS không thể nào giải thích được, vì lẽ CA là cơ quan quyền lực, tiêu biểu cho luật pháp, duy trì sự chấp hành luật pháp lại hành động “bắt cóc” một công dân già 82 tuổi (!) . . . và Việt Minh Cộng Sản là thủ phạm trong vụ ám hại Đức Huỳnh Giáo Chủ nên phải bưng bít lịch sử để che giấu tội ác.

Vào trưa ngày 17-3-2001, con cháu gia đình cụ Liêm khoảng 30 người với một số tín đồ PGHH khoảng 40 người hiệp nhau kéo đến trụ sở Công An quận 1 (TP.HCM) nơi giam giữ cụ Liêm, biểu tình với nhiều biểu ngữ cầm tay đòi hỏi phải trả tự do cho cụ Liêm. Thế là, một cuộc trấn áp tàn bạo xảy ra, hằng trăm Công An cầm dùi cui, roi điện, thẳng tay hành hạ người biểu tình, con cháu cụ Liêm, những cô bé gái bị đánh ngất xỉu, rồi bị lôi kéo la lết trên đường, bắt đem vào trụ sở CA quận 1 một cách tàn nhẫn nhất, không còn gì là nhân tính (!).

Đây là lần thứ nhất suốt 26 năm dài (1975-2001) dưới chế độ độc tài tàn ác, mới có một cuộc biểu tình “hy sinh” như vậy tại TP.Hồ Chí Minh.

Trong phòng giam, nghe được tin này, cụ Liêm đạp cửa chạy ra tuyên bố “nhảy lầu” để phản đối, làm cho CA phải hết sức ngăn cản, thuyết phục.

Sự việc chỉ có 6 tiếng đồng hồ trôi qua từ lúc cụ Liêm và đoàn biểu tình bị bắt đã biểu hiện dồn dập những phản ứng quyết liệt của khối tín đồ PGHH Thuần Tuý, từ việc gia đình cụ Liêm biểu tình đến việc những người bị bắt với cụ Liêm ở TP.HCM trong ngày 17-3-2001 như tu sĩ Nguyễn Văn Điền, Nguyễn Văn Thơ, Nguyễn Thị Ngọc Lan .v.v. . . tuyên bố tuyệt thực và tin tức từ các tỉnh Miền Tây khẩn báo rằng một số không ít tín đồ PGHH chuẩn bị tuyệt thực, tự thiêu, .v.v. . . tất cả đó làm cho nhà cầm quyền CSVN phải tìm cách xoa dịu tình hình để khỏi vang tiếng đàn áp PGHH ra trước công luận quốc tế.

Thế nên, hằng trăm người tham dự biểu tình đã bị bắt được nhà cầm quyền CSVN trả tự do về nhà. Tuy nhiên một số cán bộ cao cấp như tu sĩ Nguyễn Văn Điền, Nguyễn Văn Thơ, .v.v. . . bị quản chế 2 năm.

Riêng cụ Lê Quang Liêm thì qua ngày sau (18-3-2001) Công An TP.HCM chở cụ về trường Cổ Loa, quận Phú Nhuận làm một cuộc “đấu tố” có thể gọi là dã man nhất trên thế giới văn minh vào đầu thế kỷ 21 này.

Cụ Liêm bị CA và các Đảng viên CS sở tại đánh đập, máu me đầy mình, vì cụ phản ứng quyết liệt, rồi cụ Liêm bị khiêng lên xe chở trả về nhà, kèm theo một quyết định quản chế 24 tháng . . .rồi tiếp theo 24 tháng nữa, tất cả là 4 năm (2001-2005) và trong thời gian này nhà cụ Liêm bị CA canh gát nghiêm nhặt hơn một nhà tù.

Về phần cụ bà Nguyễn Thị Thu, 75 tuổi, Phó Hội Đoàn Phụ Nữ Từ Thiện Trung Ương PGHH và một số người chưa bị bắt được lịnh cụ Liêm bảo trở về nhà, khi về đến Vĩnh Long, sáng ngày 18-3-2001, hay tin cụ Liêm bị bắt cụ bà khóc sướt mướt và than rằng: “Anh Mười bị bắt chắc chắn sẽ chết, Anh Mười chết rồi ắt Đạo cũng không còn, như vậy mình sống làm chi nữa, thà chết để nói lên cho thế giới tự do biết cái tội ác của CSVN luôn luôn quyết tâm tiêu diệt PGHH . . . chết để cho hằng triệu người PGHH được sống . . .”

Dù có nhiều người trong đoàn cùng đi theo hết lời khuyên ngăn, nhưng cụ bà vẫn khăng khăng giữ ý định và cụ bà tự tay cầm thùng xăng 5 lít đã đem theo từ mấy ngày qua, trút lên đầu và mình rồi bật quẹt lửa . . một ngọn lửa hồng rực sáng, phá tan màn âm u giữa cái địa ngục trần gian của Đảng CSVN: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo . . . đưa linh hồn một nữ Thánh tử vì Đạo về miền cực lạc . . . một ngọn lửa hồng rực lên để soi rọi vào lương tri của loài người yêu chuộng Tự Do, Công Lý và Hòa Bình nhận rõ cái tội ác của Đảng CSVN.

Cụ bà Nguyễn Thị Thu đã một lần, vào rằm tháng giêng năm Tân Tỵ (2001), toan tự thiêu tại An Hòa Tự, cơ sở của Ban Đại Diện PGHH Quốc Doanh )Thánh Địa Hòa Hảo) để phản đối CSVN dàn dựng Ban Đại Diện Quốc Doanh, nhưng vì cụ Lê Quang Liêm kịp thời can thiệp nên thảm kịch không xảy ra.

---------------------

Sau cuộc biểu tình ngày 18-3-2001 bị thất bại, ông Bùi Thiện Huệ, một đặc phái viên của cụ Liêm, hoạt động ngoài nước bị bắt ở Campuchia (Phnom Penh) ngày 23-7-2001 và bị dẫn độ về VN, ngày 14-1-2002 lãnh án tù 3 năm.

---------------------

Thời gian quản chế cụ Liêm đã mãn, song CA vẫn canh giữ cụ như bóng với hình. Tuy nhiên trên mặt pháp lý CA không còn quyền ngăn trở triệt để người ra vào nhà cụ Liêm như trong thời gian quản chế, cho nên sự hoạt động của cụ Liêm và khối tín đồ PGHH Thuần Túy được phát huy tích cực hơn, đồng thời mạn lưới CA cũng thắt chặt hơn đối với cụ Liêm.

---------------------

Ngày 20-3-2005, 120 cán bộ cốt lõi PGHH Thuần Túy nhóm tại nhà ông Trương Kim Long ở xã Mỹ An Hưng, huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) tiến hành một cuộc lễ tuyên thệ “Nguyện hy sinh cả sinh mạng lẫn tài sản để phục vụ tiền đồ Đạo Pháp, tranh đấu cho Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo”. Cuộc lễ đặt dưới quyền chủ tọa của cụ Lê Quang Liêm. Hằng trăm CA đến bao vây cuộc lễ, nhưng trước tinh thần bất khuất kiên cường của đoàn người dự lễ, nhà cầm quyền CSVN phải để cho mọi việc “êm xuôi” . . .

---------------------

Ngày 23-6-2005, trên 200 cán bộ PGHH Thuần Túy tiến hành một cuộc tuyệt thực tại nhà cố Hà Hải ở xã Nhơn Mỹ (An Giang), đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải tôn trọng Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo, nhất là đối với PGHH.

Nhà cầm quyền CSVN phải huy động ba, bốn trăm CA bao vây trấn áp đe dọa một cách vô cùng tàn bạo và một vài sự va chạm lặt vặt đã xãy ra giữa CA và đoàn tuyệt thực ông Võ Văn Bửu và Mai Thị Dung đã tẩm xăng vào mình và tuyên bố sẽ tự thiêu nếu CA tràn vào đàn áp . . .

Trước tinh thần đối kháng đầy hy sinh của khối tin đồ PGHH Thuần Tuý, nhà cầm quyền CSVN thấy không thể đè bẹp được trong nhất thời, đành phải tìm cách dàn hòa, vì sợ công luận quốc tế hay biết và lên án.

Nhưng CS vẫn là CS, vẫn là điêu ngoa, gian ác và bạo tàn không còn tình người. Một tháng rưỡi sau nhân dịp Thủ tướng Phan Văn Khải đi Mỹ được Tổng thống Bush tiếp đãi nên càng tăng máu bạo tàn, độc tài toàn trị . . . ngày 5-tháng 8-năm 2005, CSVN mở một chiến dịch càn quét khối tín đồ PGHH Thuần Túy một cách vô cùng bạo ngược. Chỉ trong 8 tiếng đồng hồ ngày 5-8-2005, gần chục cán bộ lãnh đạo PGHH Thuần Túy bị CA bắt, đánh đập tàn nhẫn, 2 người bị bức tử phải tự thiêu là tu sĩ Trần Văn Uùt tự Uùt Hòa Lạc và Võ Văn Bửu. Còn 7 người bị bắt . . . như tu sĩ Nguyễn Văn Điền, Phó Hội Trưởng Trung Ương PGHH Thuần Túy, tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm, Mai Thị Dung, Nguyễn Thị Hà, Trần Thanh Phong .v.v. . . mỗi người bị kêu án từ 5 đến 7 năm tù, trong lúc họ đang sống trong một môi trường thuần túy tu hành, không có tội tình gì cả.

---------------------

Tháng 2 năm 2006, nữ tu sĩ Nguyễn Thị Thanh, 28 tuổi, nữ cán bộ hoằng pháp Trung Ương PGHH Thuần Túy bị CA bắt đem về Vĩnh Long tra tấn, bắt buộc phải nhận những gì do CA đềø ra về vụ cụ bà Nguyễn Thị Thu tự thiêu ngày 18 tháng 3 năm 2001. Cô Thanh tuyệt thực phản đối quyết liệt, và từ đó đến nay đã 6 tháng rồi, mất luôn tin tức, người nhà cô Thanh đến CA Vĩnh Long cầu khẩn cũng không được gặp cô Thanh. Có tin tức cô Thanh đã chết vì vừa tuyệt thực vừa bị CA đánh đập tra tấn.



Bà Mai Thị Dung nạn nhân trong chiến dịch CA càn quét PGHH ngày 5 -8-2005, bị kết án 5 năm tù, giam giữ ở khám Bằng Lăng (An Giang) cũng đã bị dời đi từ trung tuần tháng 6 năm 2006, đến nay gần 3 tháng cũng vẫn mất tin tức, người nhà đi gõ cửatừ trại giam này đến trụ sở CA khác cũng vẫn không gặp được mặt bà Dung. Cũng có itn tức là đã chết vì bị CA tra tấn về vụ cụ bà Nguyễn Thị Thu tự thiêu.



Cụ bà Nguyễn Thị Thu tự thiêu thời gian đã trôi qua gần 6 năm rồi, mà nhà cầm quyền CSVN vẫn mãi tiếp tục bới xới vụ này, rõ ràng là cố ý tạo lý do để bắt bớ kết tội thêm một số cán bộ cốt cán PGHH Thuần Túy. Thật là tàn ác đến mức độ không còn lời lẽ gì có thể dùng để đánh giá. “Quả là cây muốn lặng gió lại không ngừng”.

---------------------

Từ tháng 10 – 2005 đến tháng 5 – 2006, chỉ trong vòng 7 tháng mà CA đã sử dụng hành động "côn đồ" trá hình thường dân để đón dường đánh đập cán bộ PGHH đến 5 lần, nhằm mục đích đe dọa cán bộ PGHH Thuần Túy không còn dám đi lại đây đó để hoạt động.

Lần sau hết là vào ngày 24-5-2006, khoảng 20 cán bộ PGHH đi dự lễ tuần của cố Hà Hải, trên đường về bị CA huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) do Trung tá Tài chỉ huy giả thường dân chặn đường đánh nhiều người bị trọng thương, nặng nhất là bà Nguyễn Thị Điệp 48 tuổi bị chấn thương đầu, Nguyễn Văn Thì 28 tuổi bị thương nặng ở ngực và sườn, phải đi cấp cứu ở bệnh viện.

Trước hành động thô bạo, hung tàn này của CA, 16 người trong số nạn nhân nói trên tiến hành một cuộc tuyệt thực từ ngày 30-5-2006 đến 9-6-2006 tại nhà ông Nguyễn Văn Thơ, Hội trưởng giáo hội PGHH Thuần Túy tỉnh Đồng Tháp, tọa lạc tại xã Tân Hòa, huyện Lai Vung (Đồng Tháp) để phản đối hành động tàn bạo của CA . . .

Cuộc tuyệt thực này được đồng bào trong nước và hải ngoại, kể cả người nước ngoài lên tiếng ủng hộ qua 2 Thỉnh Nguyện Thư mang chữ ký gần 7 ngàn người được loan báo trên mạng lưới tin tức toàn cầu.

---------------------

Đầu năm 2006, CSVN âm mưu với Lê Phước Sang trở về nước tiếp tay với Nguyễn Văn Tôn (Giáo Hội PGHH Quốc Doanh) và Trần Hữu Duyên để đánh đổ cụ Lê Quang Liêm và khối tín đồ PGHH Thuần Tuý đang ngày càng lớn mạnh với sự ủng hộ của toàn khối tín đồ trong nước và sự ủng hộ mạnh từ đồng bào hải ngoại và ảnh hưởng quốc tế.

---------------------

Hằng năm, ngày 18 tháng 5 âm lịch là ngày đại lễ kỷ niệm ngày khai sáng nền đạo PGHH. Từ sau ngày 30-4-1975, suốt 24 năm dài (1975-1999) nhà cầm quyền CSVN triệt để cấm tín đồ PGHH tổ chức ngày lễ này. Sau khi dàn dựng Ban Đại Diện PGHH quốc doanh thì CSVN chỉ cho cơ cấu “tay sai” này tổ chức ngày lễ 18/5 âl để tạo uy tín với tín đồ, còn giáo hội PGHH Thuần Túy do cụ Lê Quang Liêm lãnh đạo thì CSVN dùng mọi thủ đoạn, mọi âm mưu để không cho giáo hội PGHH Thuần Túy tổ chức ngày lễ này.

Năm nay (2006) nhà cầm quyền CSVN vẫn giữ đường lối cũ là chỉ có giáo hội PGHH quốc doanh, ông Trần Hữu Duyên với Lê Phước Sang mới được phép tổ chức ngày lễ này vào ngày 13-6-2006 kỷ niệm năm thứ 67 ngày khai sáng đạo PGHH.

Tuy nhiên, trước những thử thách cam go đó cụ Lê Quang Liêm vẫn quyết định tổ chức ngày lễ này tại tự gia ở số E1, cư xá Nguyễn Đình Chiểu, Phú Nhuận (Sài Gòn) còn ở các tỉnh thì tùy nghi nơi nào tổ chức được thì cứ tiến hành.

Nhưng trên thực tế đã phơi bày những hành vi của nhà cầm quyền CSVN trắng trợn xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do tín ngưỡng của khối tín đồ PGHH Thuần Túy qua các hiện tượng đại lược như sau:

a)- Hàng trăm nhà cán bộ PGHH Thuần Túy bị CA bao vây chặt chẽ, nội bất xuất, ngoại bất nhập để không tổ chức được cuộc lễ.

b)- Sáng sớm ngày 12-6-2006, CA đến nhà ông Nguyễn Văn Thành, Hội trưởng PGHH Thuần Túy huyện Hồng Ngự (Đồng Tháp) uy hiếp không cho tổ chức cuộc lễ.

c)- Khoảng 4 giờ sáng ngày 12-6-2006, một toán CA khoảng 10 người giả thường dân kéo đến chọi đá vào nhà ông Nguyễn Phước Hậu, Trưởng Ban Tổ Chức, Giáo Hội PGHH Thuần Túy tỉnh An Giang, ở xã Long Giang (An Giang) bể cả cửa kính và hâm he nếu tổ chức lễ sẽ bị đốt nhà. Nhà ông Hậu là địa điểm dự trù tổ chức ngày lễ.

d)- Khoảng 9 giờ ngày 12-6-2006, một toán CA khoảng 20 người, giả thường dân kéo đến nhà ông Trương Văn Đức, Tổng Vụ Thanh Sinh PGHH Thuần Túy, tọa lạc tại thị trấn Chợ Vàm (thánh địa PGHH) là nơi đang chuẩn bị tổ chức ngày lễ. Toán người này uy hiếp ông Đức phải hủy bỏ tổ chúc cuộc lễ, ông Đức và những đồng đạo hiện diện phản ứng lại thì toán người này xô té ngã, sau đó "hung thủ" tịch thu cờ đạo, biểu ngữ và dẹp bỏ bàn hương án, bắt buộc những người hiện diện phải giải tán.

Theo chương trình dự trù thì trong 8 tỉnh giáo hội PGHH, mỗi giáo hội có 5 đại diện về Sài Gòn để dự buổi tiếp tân tại nhà cụ Liêm, nhưng kết cuộc vì sự bao vây ngăn chặn của CA, chỉ có vài người đến được nhà cụ Liêm mà thôi.

Tuy nhiên, buổi tiếp tân tại nhà Cụ Liêm nhân đại lễ năm thứ 67 ngày khai đạo PGHH (13-6-2006) vẫn tiến hành với một số nhân vật tham dự như : Kỷ sư Đổ Nam Hải, Giáo sư Nguyễn Chính Kết, Giáo Sư Trần Khuê, Linh mục Chân Tính, Đại diện mục sư Nguyễn Hồng Quang, Mục sư Ngô Hoài Nở, Mục sư Trần Mai, Oâng Trần Hiền, Oâng Lê Trí Tuệ, .v.v. . .

---------------------

Ngày 25-6-2006, cụ Lê Quang Liêm và phái đoàn PGHH Thuần Túy tại Sàigòn đi về tỉnh An Giang để chủ tọa lễ ra mắt giáo hội PGHH tỉnh An Giang, vẫn bị nhà cầm quyền CSVN giăng một mạn lưới CA dày dặc, dùng mọi thủ đoạn ngăn chặn phái đoàn cụ Liêm… và cuối cùng phái đoàn phải trở lại Sài Gòn, gây một luồng căm phẫn sôi nổi trong khối tín đồ PGHH Thuần Túy.

---------------------

Cụ bà Lê Quang Liêm, đột nhiên bị bệnh nặng phải vào bệnh viện Trưng Vương, đường Lý Thường Kiệt (Sàigòn) để cấp cứu vào lúc 14 giờ ngày 27-6-2006, đương nhiên cụ Liêm cùng đi theo, và 4 tên CA canh giữ cụ Liêm ngày đêm cũng bám sát cụ Liêm, mặc dù cụ Liêm không bị một hình thức quản chế nào hết.

Đến 19 giờ cùng ngày cụ Liêm đi trở về nha. Trên quảng đường khoảng 70 mét từ khu điều trị ra đến cổng bệnh viện để lên xe, khi đi có 2 cháu gái kèm theo cụ Liêm vì mấy tháng nay cụ Liêm bị bệnh. Lúc cụ Liêm đang đi thì bổng có một xe gắn máy từ phía sau vọt tới thật nhanh rồi quẹo trái vượt ngang mặt cụ Liêm, nhờ 2 cháu gái nhanh mắt kéo cụ Liêm đứng lại, nếu không thì cụ Liêm đã bị chiếc xe đó đụng, với tốc độ thật nhanh có thể cụ Liêm bị tử vong, hay ít nhất cũng bị thương trầm trọng vì cụ Liêm đang bịnh, hai chân rất yếu, đi đứng không vững. Đi phía sau cụ Liêm là anh Hiển (con cụ Liêm) nhìn được ngay tên “vọt xe” đó là 1 trong 4 tên CA bám sát theo cụ Liêm từ khi đi vào bệnh viện.

Thì ra đây là một cuộc mưu sát cụ Liêm một cách hết sức đê hèn của nhà cầm quyền CSVN dưới chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa, giữa một thành phố mang tên Hồ Chí Minh vĩ đại, mang tên thành phố anh hùng !

Theo người nhà cụ Liêm cho biết là trong 3, 4 năm sau cùng này, cụ Liêm gặp phải những cuộc mưu sát đê hèn như vậy ít nhất là 3 lần rồi . . . ngoài ra còn có nhiều cú điện thoại gọi đến hăm he cụ Liêm, bảo phải chấm dứt mọi hành động chống phá nhà nước CS bằng không thì cụ Liêm “không ở tù rục xương thì cũng bị chết “bắt đắc kỳ tử”.

---------------------

Ngày mồng 1 tháng 7 năm Bính Tuất (25-7-2006) là ngày lễ tuần giáp năm của cố tu sĩ Trần Văn Uùt tự Uùt Hòa Lạc.

Biểu lộ tinh thần tôn trọng luật pháp, cụ Lê Quang Liêm có gửi Thông báo số 985/TB/TƯ đề ngày 14-7-2006 cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng biết đây là một lễ tuần theo phong tục truyền thống dân tộc, yêu cầu Thủ tướng phải chỉ thị cho nhà cầm quyền địa phương không nên sử dụng những thủ đoạn quyền lực trấn áp cuộc lễ.

Nhưng trên thực tế thì tàn nhẫn vẫn là tàn nhẫn, bạo ác vẫn là bạo ác, đó là thực chất của chế độ độc tài toàn trị của CSVN, tu sĩ Trần Văn Út vì bị CA bức tử nên phải tự thiêu đã nằm vào lòng đất lạnh mà CSVN vẫn không buông tha. Sau khi Trần Văn Út chết, nhà Trần Văn Út vẫn bị CA bao vây canh gát ngày đêm, không cho một ai được đến để tỏ một lời phân ưu . . . rồi nay đến lễ tuần giáp năm thì hằng mấy trăm CA vây kín các nẽo đường tiến vào nhà cố tu sĩ Trần Văn Uùt, ngăn chặn không cho một ai được vào nhà để cầu nguyện cho người quá cố.

Ngày mồng 1 tháng 7 năm Bính Tuất (25-7-2006) hằng chục phái đoàn PGHH Thuần Tuý từ các nơi kéo về dự lễ đều bị CA dùng mọi áp lực thô bạo ngăn chặn không một ai được vào đến nhà Trần Văn Út kể cả những bà con ruột thịt, trong lúc tại nhà nạn nhân, khói hương nghi ngút quyện theo chiều gió quạnh hiu như giữa sa mạc buổi hoàng hôn . . . !

Ôi ! TỰ DO, HẠNH PHÚC của chế độ CHXHCNVN, của sự lãnh đạo của Đảng “Cộng Sản VN Quang Vinh” là như thế ấy !

---------------------

- Trước ảnh hưởng ngày càng nhảy vọt của cụ Lê Quang liêm và khối tín đồ PGHH Thuần Tuý, CSVN “ra lịnh” cho Giáo Hội Quốc Doanh phải nổ lực bằng mọi thủ đoạn để đả phá uy tín của khối tín đồ PGHH Thuần Tuý, nên bè lũ tay sai này dùng đủ mọi âm mưu, dù là đê tiện đến đâu, để phản ứng với cụ Liêm bằng hành động, bằng tuyên truyền, điển hình là Thông Báo số 1255/TB/BTSTƯ đề ngày 24-7-2006, v.v. . . do Nguyễn Văn Tôn, với nội dung bỉ ổi, nịnh bợ CSVN một cách trơ trẻn đáng phỉ nhổ. Nhưng kết cuộc lại là gậy ông đập lưng ông, uy tín cụ Lê Quang Liêm càng vượt bậc và uy tín của đám giáo hội tay sai bạo lực bạo quyền ngày càng suy đồi, cơ hồ tan rã.

---------------------

Thượng tuần tháng 8 năm 2006, nhà cầm quyền CS An Giang được lệnh Trung Ương mở chiến dịch tẩy trừ Giáo Hội PGHH Thuần Túy tỉnh An Giang.

Khởi đầu, Ủy ban Nhân Dân tỉnh An Giang ra quyết định quản chế:

- Trần Nguyên Huởn, Hội Trưởng Tỉnh Giáo Hội.

- Nguyễn Phước Hậu, Trưởng Ban Tổ Chức Tỉnh Giáo Hội.

- Bà Trần Thị Xinh, Hội Đoàn Phụ Nữ Từ Thiện Tỉnh Giáo Hội.

- Trương Văn Đức, Tổng Vụ Thanh Sinh.

Mỗi người 2 năm về tội “chống đối” và “âm mưu lật đổ chế độ”. Nhưng 4 vị này cương quyết không nhận lịnh quản chế và tuyệt thực phản đối.

Liên tiếp 2 tuần lễ, CA đòi hết những Trị Sự Viên PGHH tỉnh An Giang đến làm việc và không tiếc lời đe doạ, bắt buộc phải giải tán, chấm dứt hoạt động. Nhưng vô hiệu quả, vì tất cả những vị này đều nhất loạt xác định là tiếp tục sinh hoạt tôn giáo và đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải tôn trọng quyền Tự Do Tôn Giáo theo như quy định nơi điều 70 của Hiến Pháp do Đảng CSVN sáng tác, và các vị này tuyên bố sẵn sàng chấp nhận mọi sự trấn áp, khủng bố của nhà cầm quyền CSVN.

---------------------

Tuần lễ từ 18 đến 25-8-2006, 2 sĩ quan thuộc cục Bảo Vệ Chánh Trị Sàigòn là Trung úy Lâm và Trung úy Tiến đi về các tỉnh An Giang, Cần Thơ, phối hợp với Công An (CA) tỉnh, huyện, địa phương đến từng nhà cán bộ PGHH Thuần Tuý và nói rằng Bộ Công An ủy nhiệm họ đến từng nhà cán bộ PGHH Thuần Tuý để cảnh giác rằng:

“Lê Quang Liêm là tên phản động cực kỳ nguy hiểm, làm tay sai cho CIA Mỹ và bọn Việt Kiều phản động ở Hải Ngoại, hành động gây rối để lật đổ nhà nước CS là nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân . . . Để tránh “tội lây vạ tràng” nhà nước khoan hồng kêu gọi những người theo Lê Quang Liêm phải phản tỉnh, chánh thức xin nhà nước bao dung xoá bỏ tội lỗi và cam kết không a tòng theo Lê Quang Liêm nữa thì sẽ được nhà nước đối xử tốt. Bằng ngược lại, khi nhà nước VN được vào WTO, được Mỹ ủng hộ, nhất là sau khi Tổng thống Bush qua VN thì những người chống đối nhà nước sẽ bị “tẩy sạch” đặc biệt là Lê Quang Liêm và đồng bọn không bị ở tù rục xương thì cũng bị chết “bất đắc kỳ tử”” (có lẽ là bị CS mưu sát).

Nếu ai phản tỉnh thì làm đơn gửi cho CA, Huyện, Tỉnh sẽ chuyển về cục Bảo Vệ Chánh Trị Sàigòn thì sẽ được ân thưởng liền, .v.v. . . . và .v.v. . . . “

Khi toán CA này đến từng nhà, đại đa số là bị tín đồ PGHH không tiếp, điển hình là tại nhà cố Hà Hải, ngày 19-8-2006, bị những người trong nhà đuổi đi.

Tóm lại, cho đến ngày giờ này (9/2006) CSVN vẫn theo đuổi một chánh sách “khủng bố trắng “ đối với cụ Liêm và hằng trăm cán bộ khối PGHH Thuần Tuý, nhà nào cũng bị CA canh giữ ngày đêm và bám sát các đối tượng này như bóng với hình, biến cuộc sống của những cán bộ PGHH Thuần Túy như những người tù ở trong một nhà tù rộng lớn (!).



---------------------



KẾT LUẬN:



Nếu phải viết lại đầy đủ về những tôi ác của CSVN đối với PGHH xuyên suốt 61 năm qua (1945-2006) thì dù viết đến hằng trăm trang giấy cũng chưa hết.

Những gì nêu lại trên đây là những sự kiện đại lược để minh chứng về tội ác của CSVN từ thời VM đến thời CS ngày nay.

Căn cứ Điều 2 của Công Ước Quốc Tế theo Nghị Quyết 260 A (III) ngày 09-12-48 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam gia nhập ngày 09-6-81, các tội ác trên của CSVN là tội “DIỆT CHỦNG” và CSVN phải bị trừng trị theo Điều 4 và Điều 6 của Công Ước này.

Sơ lược qua một quá trình kể trên đã cho thấy rõ ràng rằng đến nay, CSVN vẫn không buông tha PGHH, vẫn tiếp tục “tận sát” PGHH, dồn PGHH vào tận chân tường. PGHH chỉ còn một con đường duy nhất là “Dấn thân vào con đường chết để tìm con đường sống. Phải làm tất cả những gì có thể làm được để đi đến cứu cánh mục đích của mình”.

Một vài khuynh hướng cho rằng: PGHH tự thiêu là một hành động cực đoan , mang tính “khủng bố“ đó là những nhận định đáng tiếc.

---------------------



Tại sao PGHH phải dùng đến hành động tự thiêu ? ? ?



Xin hãy nghe lại lời trăn trối cuối cùng của Cố Tu sĩ Trần Văn Út tự Út Hoà Lạc, một nạn nhân bị CA bức tử phải tự thiêu ngày 05-8-05 :

“Trong lúc CA đập phá cửa từng hồi, Tu sĩ Trần Văn Út đến quỳ trước mặt bà mẹ già 80 tuổi, Tu sĩ Trần Văn Út khóc sướt mướt , vừa ôm mẹ vừa nói những lời cuối cùng: Mẹ ơi ! xin mẹ tha tội bất hiếu cho con không còn sống được để hầu hạ mẹ trong lúc tuổi già. Công Sản (CS) đã dồn con và một số tín hữu vào tận chân tường, chỉ còn có cái chết để trả ơn Đạo, đáp nghĩa Thầy mà thôi. Mẹ cũng biết hiện nay , những người chân chính sống vì Đạo như chúng ta luôn bị CS quyết tâm tiêu diệt, ngày nay không chết thì ngày mai cũng chết, nếu không chết thì cũng bị tù đày . . . bị tù đày rồi bị khổ sai, rồi bị bịnh, rồi cũng chết , điển hình qua trường hợp của ông Hà Hải , Chánh Thư Ký Giáo Hội Trung Ương của mình bị ở tù 5 năm, đày đi Xuân Lộc chưa được 3 năm, vì bị khổ sai nên mắc bịnh ung thư phổi mà chết.

Một con người sống ở đời mà không biết mình bị bắt lúc nào, bị giết chết lúc nào, mọi thứ tự do căn bản tối thiểu của con người đều không cóthì khác gì sống trong địa ngục trần gian, thế thì kéo dài cuộc sống tủi nhục như thế này để làm gì? Để cho bạo quyền tha hồ chà đạp ư? Thà mình chết còn hơn, chết một cách oanh liệt để nói lên với mọi người cái tinh thần bất khuất của người tín đồ PGHH, để cảnh giác nhà cầm quyền CSVN phải chấm dứt cái chánh sách độc tài toàn trị diệt chủng này, để gióng lên một hồi chuông cho thế giới tự do, cho cộng đồng nhân loại yêu chuộng Tự Do, Công Lý và Hoà Bình hiểu biết được tội ác của CSVN . . . con chết, một người tín đồ PGHH chết để cho hàng triệu người tín đồ PGHH được sống . . . “



Những lời bi thảm vừa kể của Cố Tu sĩ Trần Văn Út là điển hình cho tâm tư của hầu hết khối tín đồ PGHH thuần tuý trước lưỡi đao “đồ tể” của CSVN.

---------------------

Tín đồ PGHH là người “HỌC PHẬT TU NHÂN”. Học Phật là làm lành lánh dữ, tuân thủ những lời Phật dạy, cố gắng phát huy đức Từ Bi của chư Phật, có khi phải hy sinh mạng sống của mình để tạo phúc lợi cho người khác . . . Tu Nhân là sống theo lời dạy của Thánh hiền , đặt Nhân Nghĩa lên hàng đầu, noi theo gương hào hùng , nghĩa khí của người quân tử: “Chết vinh hơn sống nhục”. Phải biết sống và biết chết.

Biết sống như Bà Trưng, Bà Triệu , anh hùng đất Lam Sơn, anh hùng áo vải Tây Sơn, Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, v.v. . .

Biết chết như các Ngài Trần Bình Trọng, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, .v.v. . .

Tại sao Ngài Trần Bình Trọng” thà làm quỷ nước Nam chớ không thèm làm vua đất Bắc ? Tại sao Ngài Thủ Khoa Huân “vô bố dĩ khinh hồ lổ phách, bất hàng cam đoạn tướng quân đầu ?

Hãy đặt mình vào hoàn cảnh của tín đồ PGHH điển hình là trường hợp của cố Tu Sĩ Trần Văn Út sẽ thấy hành động này có cực đoan, khủng bố không ? ? ? nhất là “tự thiêu” tại sao lại là khủng bố ? Ngồi chấp tay, niệm Phật, tẩm xăng vào mình rồi đốt, để nói lên sự phẩn uất vô cùng tận trong một cuộc sống không còn cách nào để sống được, để cảnh cáo những tội ác tột cùng của CSVN . . . có gây tổn hại cho người thứ 2 nào đâu ? Nếu không chết như vầy, để CS bắt, đánh đập nhừ tử, rồi cầm tù, rồi bị khổ sai và cuối cùng cũng phải mắc bạo bệnh mà chết . . . như vậy phải chọn cái chết nào ??? một tù binh, một phạm nhân bị cầm tù còn có hy vọng sau khi mãn tù sẽ được sống lại cuộc sống bình thường, nên họ cố gắng chịu đựng mọi kham khổ để chờ ngày ra tù. Dưới chế độ độc tài bạo ác của CSVN, người tín đồ PGHH bị cầm tù sẽ bị khổ sai, mắc bạo bệnh rồi chết như trường hợp của cố Hà Hải . . . hoặc mãn tù rồi trở về nhà, nếu không “rạp đầu” trước quyền lực của CSVN thì sớm muộn gì cũng bị CS cầm tù trở lại như trường hợp của Võ Văn Bửu, năm 2000 bị 3 năm tù, vừa ra tù không đầy 3 tháng thì ngày 5-8-2005 bị CS bắt lại và bị cầm tù 7 năm. Trong một tình huống như vậy, nếu ai đặt mình vào hoàn cảnh tuyệt vọng này của người tín đồ PGHH, có thể làm được gì khác hơn Nguyễn Thị Thu, Trần Văn Út, Võ Văn Bửu không ??? Đúng ra , CSVN mới là khủng bố, là cực đoan. Dùng bạo lực bức tử người khác phải “tự sát” như CA của CSVN đã từng hành động thì có đúng là khủng bố, cực đoan không? Áp dụng chính sách độc tài toàn trị với bàn tay đẫm máu như CSVN có đúng là cực đoan, khủng bố không ?

Xin hãy thương tiếc và cầu nguyện cho những người đã dám huỷ bỏ mạng sống mình để phục vụ cho Đại Nghĩa, cho lẽ sống của người khác . . .



---------------------



LỜI KÊU GỌI KHẨN THIẾT


Xin Kính Gửi Đến:

A- Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Chánh phủ G.W.Bush và Quốc Hội là quốc gia có những quan hệ trực diện với CSVN nên nhớ rằng:

a)- Một chủ trương, một hành động, cả đến một lời tuyên bố của Hoa Kỳ sẽ là một áp lực tiết chế sự lộng hành của chế độ độc tài toàn trị CSVN và cũng là một trấn an hay khích lệ CSVN tiếp tục gia tăng cường độ bạo hành của chế độ độc tài toàn trị để thẳng tay đàn áp , khủng bố thành phần đối lập yêu nước chân chính.

b)- Ngần ấy chủ trương, hành động “tận sát” PGHH như đã lược kể trên đây, chỉ riêng với PGHH thôi, không kể các tôn giáo khác, có đủ để kết luận rằng:” CSVN đàn áp tôn giáo không ?” có đủ để giữ CSVN còn trong danh sách CPC không ?

c)- Chánh sách ngoại giao “mềm dẽo” của Hoa Kỳ đối với Cộng Sản Trung Quốc từ thập kỷ trước đã đem lại những hậu quả gì ? đó là bài học kinh nghiệm để Hoa Kỳ xử sự trong chánh sách đối ngoại với CSVN ngày nay.

Tóm lại, nhân dân Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ , Chánh Phủ và Quốc Hội nên cân nhắc giữa “QUYỀN LỢI VÀ DANH DỰ” . Quyền lợi mất thì trong 1 năm, 2 năm, 5 năm, 10 năm có thể phục hồi được. DANH DỰ của một siêu cường quốc mất thì dù có hằng thế kỷ cũng chưa ắt được phục hồi ?

Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ là một siêu cường, những lời tuyên bố của vị Tổng Thống Hoa Kỳ là những nét đậm của lịch sử.

Đầu năm 2005, trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ 2, Tổng Thống G.W. BUSH đã tuyên bố những gì về “thời đại dân chủ hoá toàn cầu” chắc chắn Tổng Thống Bush chưa quên, nhân dân và Quốc Hội Hoa Kỳ chưa quên, và nhất là nhân dân VN , một khối nạn nhân khổng lồ trên 80 triệu người dưới ách độc tài toàn trị của CSVN không thể nào quên . . . và cả thế giới không ai là không biết Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam do đảng CSVN lãnh đạo là một chế độ độc tài toàn trị, rặt ròng theo chủ thuyết Mac-Lenin:” BẠO LỰC, KHỦNG BỐ và TRẤN ÁP”.



B)- Kính Xin Gửi Đến:

- Các Chánh phủ, Quốc Hội của các quốc gia tự do, yêu chuộng Công Lý và Hòa Bình trên thế giới hãy nhũ tình nhiệt tâm giúp đỡ bằng mọi phương tiện, ảnh hưởng cho nhân dân VN sớm kiến tạo lại một nước Việt Nam Mới, DÂN CHỦ, TỰ DO, HÒA BÌNH và THỊNH VƯỢNG.

- Phải phân biệt chương trình giúp đở cho VN là giúp đở cho nhân dân VN hay là giúp đở cho Đảng CSVN ?. Giúp đở cho nhân dân VN thì tại sao đến ngày giờ này mà VN còn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, trong lúc đó những cấp lãnh đạo CSVN từ cấp tối cao đến cấp địa phương đều giàu có “nứt đố đổ vách” và những vụ tham nhũng như PMU18, vụ tham nhũng của công ty Dầu khí VN, .v.v. . . bộc khởi như một bịnh dịch ???



C)- Kính Xin Gửi Đến:

- Toàn thể đồng hương ở Hải Ngoại nên thận trọng trước cái “bánh vẽ” của CSVN đang đặt trước môi trường Hải Ngoại để thu hút Việt Kiều. Đừng bao giờ quên cái câu nhận định thời sự đã trở thành chân lý:” ĐỪNG NGHE NHỮNG GÌ CS NÓI MÀ HÃY NHÌN NHỮNG GÌ CS LÀM” và hãy dốc tâm tích cực ủng hộ những cuộc tranh đấu thực sự cho “DÂN CHỦ HÓA VN” tại quê nhà mau đem đến thắng lợi cuối cùng.



D)- Kính Xin Gửi Đến:

- Các tôn giáo, các đoàn thể chính trị, các thành phần, nhân vật yêu nước chân chính tại quốc nội và hải ngoại cùng chung lập trường chống Cộng Sản độc tài toàn trị, hãy liên kết với nhau, hãy thống nhất hành động, ủng hộ thiết thực lẫn nhau trong một LIÊN MINH VÌ TIỀN ĐỒ TỔ QUỐC và DÂN TỘC hầu tạo một thế lực chính trị khả dĩ đẩy lùi CSVN vào bóng tối, thực hiện “DÂN CHỦ HÓA VN”.



Đoàn kết chân thành là yếu tố quyết định trong trận tuyến đánh ngã CSVN độc tài toàn trị để kiến tạo một nước VN mới TỰ DO DÂN CHỦ, HÒA BÌNH và THỊNH VƯỢNG và đừng bao giờ quên câu chuyện “Bó Đũa”.

---------------------



LẬP TRƯỜNG CỦA KHỐI PGHH THUẦN TÚY
-o0o-



Với pháp môn HỌC PHẬT TU NHÂN “Đời Đạo Liên Quan Rạng Chói Ngời”, tôn chỉ của PGHH là ĐẠO PHÁP (ĐẠO) và DÂN TỘC (ĐỜI) – do Đức Huỳnh Giáo Chủ khai thi-

Thế nên, khối tín đồ PGHH kiên trì theo đuổi con đường tranh đấu bất bạo động theo các mục tiêu:

I)- Về ĐỜI: - Dân chủ hoá đất nước, kiến tạo một xã hội công bằng và nhân đạo có Cang Thường (Nhân, Nghĩa, Lễ Trí Tín) và có đạo lý (biết thương người, vì người hơn vì mình).

II)- Về ĐẠO: - Tuân thủ lời Phật dạy:

- Làm tất cả các điều lành, dù là điều lành nhỏ.

- Tránh tất cả các điều dữ, dù là điều dữ nhỏ.

- Rữa lòng cho trong sạch.

Trong tình thế hiện nay của đất nước, khối tín đồ PGHH Thuần Túy kiên quyết theo đuổi lập trường tranh đấu bất bạo động gồm 8 điểm sau đây:



1)- Triệt để ủng hộ bằng mọi giá Khối 8406 và các tổ chức phong trào DÂN CHỦ HÓA VN.

2)- Cương quyêt đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải tôn trọng Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo tại VN.

3)- Cương quyết đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải giải tán Ban Trị Sự PGHH Quốc Doanh, để cho toàn thể tín đồ PGHH được tự do bầu chọn người lãnh đạo tôn giáo mình.

4)- Cương quyết đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải hoàn trả lại tất cả tài sản của Giáo Hội PGHH đã bị cưỡng đoạt từ sau ngày 30-4-1975, đặc biệt là ngôi đền thờ chánh của PGHH tại số 114 Bùi Thị Xuân (Sàigòn), bị nhà cầm quyền cưỡng chiếm rồi biến thành một điểm thế tục đồi bại, ô hợp, bừa bãi với những trò: Chơi bi da, bán hủ tiếu, thậm chí còn tổ chức những cuộc mãi dâm trá hình, .v.v. . . Đây là một tội ác của CSVN trắng trợn lăng nhục danh dự PGHH, trắng trợn chà đạp thô bạo lòng tín ngưỡng thiêng liêng của 5 triệu công dân tín đồ PGHH . . . phải được chấm dứt ngay.

5)- Cương quyết đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN, không được dùng bạo lực bạo quyền, thủ đoạn, âm mưu ngăn trở việc tổ chức ngày lễ 25-2 âl hằng năm, kỷ niệm Đức Huỳnh Giáo Chủ bị VM ám hại tại rạch Đốc Vàng Hạ (năm 1947).

6)- Cương quyết đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải trả tự do cho các cán bộ cao cấp của PGHH Thuần Tuý bị chiến dịch càn quét ngày 5-8-2005 bắt và hiện đang bị cầm tù, đại thể như:

- Tu sĩ Nguyễn Văn Điền, Phó Hội Trưởng Trung Ương PGHH Thuần túy.

- Tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm.

- Cư sĩ Võ Văn Bửu.

- Mai Thị Dung.

- Trần Thanh Phong.

- Nguyễn Thị Hà.

- Tô Văn Mãnh.

- Bùi Tấn Nhã.

- Lê Văn Tính.

7)- Cương quyết đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải làm sáng tỏ vụ Nguyễn Thị Thanh, và Mai Thị Dung, hiện còn sống hay đã bị giết chết ?

8)- Cương quyết đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải chấm dứt ngay chủ trương thủ đoạn, âm mưu tiếp tục tiêu diệt PGHH.



Toàn khối tín đồ PGHH Thuần Tuý nguyện hy sinh cả sinh mạng lẫn tài sản để theo đuổi lập trường nêu trên đến thắng lợi cuối cùng hay đến hơi thở cuối cùng.



Làm tại VN, ngày 15 tháng 9 năm 2006
TM. Giáo Hội Trung Ương PGHH



Hội Trưởng


Lê Quang Liêm

Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Tuý

Nhung bi kich sau ngay toan quoc kha'ng chien

Những Bi Kịch Sau Ngày Toàn Quốc Kháng Chiến
(LÊN MẠNG Thứ tư 20, Tháng Mười Hai 2006)

Lý Thái Hùng
(VNN)

Tháng 12 năm nay, đảng Cộng sản Việt Nam đã huy động khá nhiều địa phương tổ chức kỷ niệm cái gọi là ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp xảy ra cách này 60 năm vào ngày 19 tháng 12 năm 1946. Vào lúc đó, Hồ Chí Minh trên danh nghĩa là chủ tịch nước Việt Nan Dân Chủ Cộng Hòa mà họ đã cướp được từ tay chính quyền Trần Trọng Kim vào tháng 8 năm 1945 sau khi Nhật đầu hàng đồng minh, kêu gọi đồng bào toàn quốc, đặc biệt là tại Hà Nội phải rút khỏi thành phố để chống lại các cuộc tấn công của quân đội Pháp. Cũng vào lúc đó, Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã cho rằng người Pháp đã phản bội Hiệp định sơ bộ Việt -- Pháp ngày 6 tháng 3 năm 1946 và xâm phạm tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946 mà hai phía gồm chính quyền Việt Minh và chính quyền thuộc địa Pháp đang thảo luận nhằm giải quyết vấn đề độc lập của Việt Nam. Nếu những ai không thuộc sử hoặc bị kích thích bởi tinh thần dân tộc mù quáng, dễ tin rằng các đều nêu ra của đảng Cộng sản Việt Nam - hay nói đúng hơn là của chính quyền Việt Minh vào thời đó - là đúng và cuộc kháng chiến có chính nghĩa. Sự thật không phải như vậy.

Tình hình Việt Nam vào tháng 8 năm 1945 sau khi quân đội Nhật đầu hàng đồng minh, đã rơi vào khoảng trống chính trị. Việt Minh đã lợi dụng cơ hội này thực hiện cuộc tổng khởi nghĩa, cướp chính quyền và đã khai thác việc các công chức và đồng bào tổ chức mít tinh ủng hộ chính quyền Trần Trọng Kim vào lúc đó, để cướp chính quyền vào ngày 19 tháng 8 năm 1945. Hai tuần sau, Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo Việt Minh công bố bản tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình vào ngày 2 tháng 9. Không khí của cả nước vào lúc đó rất vui mừng vì lòng người, ai ai cũng muốn nước nhà độc lập và thống nhất. Các đảng phái, lực lượng chính trị và tôn giáo của người quốc gia đã cùng hợp tác với Việt Minh nhằm xây dựng một chính quyền Việt Nam độc lập, thống nhất sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc. Kết quả của sự hợp tác này là sự ra đời một chính phủ nhiều thành phần tham gia gồm đại diện các đảng phái quốc gia và Cộng sản qua danh xưng Việt Minh. Ngoài ra, tuy chưa phổ cập trên toàn quốc, nhưng người dân Việt Nam đã tham gia bầu cử một quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam 'độc lập' này. Nói chung là tâm trạng của đại đa số nhân dân Việt Nam đều vui mừng, vì đất nước độc lập và không màng đến vấn đề ý thức hệ quốc gia hay cộng sản vào lúc đó. Mọi người đã tham gia bằng tấm lòng yêu nước.

Điều trớ trêu là Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo Việt Minh, ngoài bề mặt thì nói đoàn kết, hợp tác với các đảng phái, hầu xây dựng một chính quyền vững mạnh; nhưng ở bên trong họ tìm cách tiêu diệt các lực lượng quốc gia để khống chế mọi mặt với âm mưu là xây dựng chế độ cộng sản trên toàn vùng Đông Dương theo lệnh của Liên Xô. Không những thế, họ lại đi đêm với Pháp để rước Pháp trở lại miền Bắc qua Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1046, rồi chính họ mượn tay người Pháp tiêu diệt các đảng phái quốc gia, hầu dễ dàng trong việc thao túng tình hình. Nhưng Cộng sản Việt Nam đã không khai thác được gì khi đưa người Pháp trở lại Miền Bắc, và nhất là nhìn thấy tham vọng của Pháp trong việc muốn tái chiếm Đông Dương sau Thế Chiến Thứ Hai, nên Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo Việt Minh mới bày ra cuộc 'toàn quốc kháng chiến' chống Pháp, mà thực tế là để chống trả lại sự lật lọng của người Pháp. Cho nên ngày 19 tháng 12 năm 1946, trên nguyên tắc không phải là ngày mà người dân Việt chủ động tiến hành cuộc chiến chống Pháp giành độc lập, mà chỉ là ngày đánh dấu hàng loạt bi kịch của dân tộc do sự tham lam và u mê của Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo Việt Minh, khi hô hào cuộc kháng chiến này.

Thật vậy, nếu từ tháng 9 năm 1945 sau khi đã nắm chính quyền trong tay, những người cộng sản và người quốc gia hợp tác chặt chẽ để vừa kiến tạo đất nước, vừa nói chuyện với Pháp hầu giành lại đôc lập, thì đã không có những thảm kịch kéo dài trong 60 năm qua. Nhìn các quốc gia có cùng cảnh ngộ bị thực dân đô hộ như Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương, Phi Luật Tân... tất cả đã lấy lại độc lập mà không tốn một giọt máu nào; trong khi chính cái ngày toàn quốc kháng chiến do Hồ Chí Minh và Việt Minh phát động này mà dân ta cho đến bây giờ vẫn chưa đủ cơm no áo mặc và nhân quyền bị đảng Cộng sản Việt Nam chà đạp một cách trắng trợn. Chính ngày toàn quốc kháng chiến này đã để lại không biết bao nhiêu là bi kịch cho đất nước và dân tộc Việt Nam.

Bi kịch thứ nhất là trong 9 năm kháng chiến chống Pháp một cách vô ích này đã làm cho hàng triệu gia đình ly tán, chết chóc và sinh lực quốc gia tiếp tục bị hao mòn.

Bi kịch thứ hai là hậu quả phân chia đất nước vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, khi Việt Minh nghe theo lời của Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa ký với Pháp hiệp định Genève để chia đôi Việt Nam. Cái tai hại của chia đôi đất nước không chỉ biểu hiện trên mặt vật chất, mà còn ghi sâu đậm trong lòng người dân mà cho đến ngày hôm nay qua nhiều thế hệ vẫn chưa xóa nhòa được.

Bi kịch thứ ba là cuộc chiến giải phóng miền Nam nghèo đói của đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 đã không chỉ tàn phá sinh lực đất nước, mà còn đẩy dân tộc vào chỗ kiệt quệ toàn diện sau 20 năm tiến hành cuộc chiến phi lý này tại miền Nam.

Bi kịch thứ tư là sự ngạo mạn của đảng Cộng sản Việt Nam sau khi chiếm miền Nam Việt Nam đã đưa đất nước vào thế bị thế giới cô lập ngoại giao và phong tỏa kinh tế, khi tiến hành việc xây dựng liên bang Đông Dương sau năm 1975. Hậu quả của bi kịch này là dân tộc và đất nước Việt Nam hoàn toàn bị phá sản.

Hậu quả của những bi kịch này thật không bút mực nào tả xiết. Nhưng, nếu chúng ta nhìn lại hiện tình đất nước và mức sống của người dân sau hai mươi năm gọi là đổi mới và mở cửa của đảng Cộng sản Việt Nam, đủ thấy là những trì lực của các bi kịch này quá lớn, đến nỗi một dân tộc cần cù, siêng năng như Việt Nam đã không thể nào khắc phục. Đương nhiên dù có khắc phục được chút nào đi nữa, thì dưới chế độ cai trị độc tài độc đảng, người dân sẽ không bao có một đời sống tự do, hạnh phúc như các quốc gia láng giềng cùng cảnh ngộ cách nay 60 năm, nay đã cất cánh. Có nhìn ra bề trái của những tuyên truyền khoác lác về ngày Toàn Quốc Kháng Chiến cách nay 60 năm ta mới thấy rõ Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã có tội rất lớn đối với quốc gia và dân tộc. Không thể nào đem cái công thắng Pháp, hay thắng Mỹ, trong những cuộc chiến do chính mình phát động một cách vô lý để che dấu những hành vi sai lầm cách đây 60 năm. Nếu không có ngày toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, biết đâu dân tộc ta đã có một tương lai khác, tốt đẹp hơn như những quốc gia láng giềng đã may mắn có được. Nếu như người Cộng sản không rước người Pháp trở lại miền Bắc qua Hiệp định sơ bộ 6/3, và không gian manh tiêu diệt những đảng phái quốc gia để độc chiếm quyền lực trên đất nước thì Việt Nam trong 60 năm qua đã có một lịch sử oai hùng và vinh quang hơn là điều mà đảng Cộng sản Việt Nam đang thêu dệt.

Ngày toàn quốc kháng chiến là một vết nhơ của lịch sử cận đại.

Lý Thái Hùng
Dec 19 2006

Don khieu nai cua TGM Can Tho

Đơn Khiếu nại Tố cáo của Tòa Giám mục Cần Thơ gửi Văn phòng Chính phủ
2006.09.10

TÒA GIÁM MỤC CẦN THƠ12 Nguyễn Trãi - P. An Hội - Q. Ninh Kiều - TP. Cần Thơ***
ĐƠN KHIẾU TỐ KHẨN CẤP

V/v Quyết định giải quyết khiếu nại của UBND Tỉnh Bạc Liêu nêu căn cứ không đúng sự thật và sai trái Pháp luật Nhà Nước

Kính gửi:
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Văn phòng Thủ tướng

Tôi, LÊ PHONG THUẬN, Giám mục Giáo phận Cần Thơ (gồm Thành phố Cần Thơ và 4 Tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau), khẩn thiết kính đệ đơn này lên Ban Bí Thư Trung Ương Đảng, Quốc Hội, Chính Phủ và các Cơ quan Bảo vệ Pháp luật của Nhà Nước quan tâm xem xét và giải quyết vụ việc sau:

Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Bạc Liêu đã ký Quyết Định số 31 ngày 17-8-2004 không thừa nhận việc đòi lại Nhà thờ Công giáo Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời tọa lạc tại số 22 đường Trần Phú, Phường 3, Thị xã Bạc Liêu, bị Chính quyền địa phương chiếm dụng từ tháng 6 năm 1975. Quyết định này nêu căn cứ không đúng sự thật và hoàn toàn sai trái với Pháp luật Nhà Nước, cụ thể như sau:

1- Tại quyết định số 31 ngày 17-8-2004, UBND Tỉnh Bạc Liêu đã nêu căn cứ ở Điều 1 của Nghị Quyết 23/2003 của Quốc Hội: "Nhà Nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà Nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo XHCN liên quan đến nhà đất".

Nhưng trường hợp Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời tại Thị xã Bạc Liêu bị chiếm dụng, lại hoàn toàn không thuộc diện nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo XHCN liên quan đến nhà đất. Mà sự thật là: Từ trước và sau ngày giải phóng Miền Nam (30-4-1975), Nhà thờ này vẫn là nơi thường xuyên sinh hoạt tôn giáo của bà con giáo dân Họ đạo Bạc Liêu. Tháng 6-1975, Chính quyền Quân quản Bạc Liêu đã tùy tiện sử dụng Nhà thờ này làm doanh trại quân đội, rồi cứ thế luân chuyển sử dụng vào nhiều mục đích khác, mà không hề có bất cứ văn bản nào của các cấp Chính quyền thể hiện việc Nhà nước quản lý nhà đất theo chính sách nào.

2- Tại Điều 1 của QĐ số 31 ngày 17-8-2004, UBND Tỉnh Bạc Liêu đã vô tình hay cố ý nói sai lệch sự thật, né tránh từ "đòi lại Nhà thờ", mà lại mập mờ dùng từ "đòi lại nhà đất có nguồn gốc là Trụ sở Sicam của chế độ cũ", để người nghe có thể hiểu lầm như nhà đất này thuộc diện cải tạo XHCN sau ngày 30-4-1975.

Sự thật là: Linh mục Nguyễn Văn Nhì theo ý kiến chỉ đạo của Tòa Giám mục Cần Thơ đứng tên mua lại Trụ sở Sicam của chế độ cũ từ ngày 13-11-1963, có thị thực của chính quyền chế độ cũ. Ngay sau khi mua xong, khu nhà này đã được sửa chữa cải tạo thành ngôi Nhà thờ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, làm nơi thường xuyên sinh hoạt tôn giáo của giáo dân Thị xã Bạc Liêu. Liên tục suốt hơn 11 năm, Nhà thờ này chỉ duy nhất làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Tháng 6-1975, Ủy Ban Quân Quản Bạc Liêu đã tùy tiện sử dụng Nhà thờ này làm nơi đóng quân, rồi luân chuyển sử dụng vào các mục đích khác cho đến nay.

3- Cũng tại Điều 1 của QĐ 31 ngày 17-8-2004, UBND Tỉnh Bạc Liêu nói: "Linh mục Nguyễn Văn Nhì đã giao cho Nhà Nước quản lý, bố trí sử dụng phục vụ lợi ích công cộng từ tháng 5-1975 đến nay". Nội dung này hoàn toàn sai sự thật. Đã nhiều lần chúng tôi có Đơn Khiếu nại đòi hỏi UBND Tỉnh Bạc Liêu công khai làm sáng tỏ việc Linh mục Nguyễn Văn Nhì đã giao Nhà thờ này cho Nhà Nước quản lý như thế nào? Giao bằng văn bản hay chỉ giao bằng nói miệng? Riêng từ "giao" cũng có nhiều nghĩa: giao hiến, hay giao cho mượn... Chẳng lẽ, cả một khu vực nhà thờ thánh đường của Họ đạo Thị xã Bạc Liêu, diện tích trên 6000 m2 là tài sản hợp pháp của Giáo hội Công giáo mà chỉ vài lời nói miệng "giao cho Nhà Nước quản lý" mà cũng tin được sao?

Sự thật là những cơ sở giáo dục và xã hội mà Giáo hội Công giáo Bạc Liêu đã chuyển giao cho Nhà nước quản lý vào thời điểm đó, đều có văn bản (chúng tôi vẫn còn lưu giữ) như: Trường Trung Tiểu Học Tương Lai, một cô nhi viện và một nhà giữ trẻ.
Kính thưa Quý vị Lãnh đạo,

Quyết định giải quyết khiếu nại của UBND Tỉnh Bạc Liêu với các căn cứ và nội dung ghi trong quyết định đều không đúng sự thật và sai trái với Pháp luật Nhà nước như thế, giáo dân và Giáo hội Công giáo Bạc Liêu không thể chấp nhận được. Và hôm nay chúng tôi tiếp tục có Đơn Khiếu Tố kính khẩn kêu cứu lên Ban Bí Thư Trung Ương Đảng, Quốc Hội, Chính Phủ và các Cơ quan Nhà Nước quan tâm xem xét và có ý kiến chỉ đạo, để UBND Tỉnh Bạc Liêu công khai tổ chức phúc tra Quyết Định số 31 ngày 17-8-2004 bằng hình thức: Dân chủ, công khai đối chất, đối chứng giữa đại diện Giáo hội Công giáo Bạc Liêu và đại diện UBND Tỉnh Bạc Liêu, trước sự tham dự chứng kiến của Cơ quan Trung ương có thẩm quyền, để xác định việc Linh mục Nguyễn Văn Nhì đã giao Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời cho Nhà Nước quản lý như thế nào.

- Nếu có văn bản giao hiến Nhà thờ này cho Nhà Nước quản lý, thì chúng tôi sẽ chấm dứt việc khiếu nại đòi lại Nhà thờ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

- Còn nếu không có văn bản giao hiến nhà thờ này, thì đề nghị UBND Tỉnh Bạc Liêu trả lại nhà đất của Nhà thờ Đức Mẹ cho Giáo hội Công giáo sử dụng, theo đúng như nội dung Nghị Định 127/2005/NĐ-CP của Thủ Tướng Chính Phủ ký ngày 10-10-2005 hướng dẫn việc thực hiện Nghị Quyết số 23/2003/QH11 và Nghị Quyết số 755/2005/NQ-UBTV QH11.

Trong khi chờ đợi ý kiến giải quyết của các Cơ Quan Trung Ương có thẩm quyền, trước mắt, chúng tôi đề nghị UBND Tỉnh Bạc Liêu ngưng ngay việc triển khai xây dựng Trường Mẫu giáo Mầm non Hoa Mai trên khu đất của Nhà thờ. Nếu chính quyền địa phương bất chấp đơn Khiếu Tố khẩn này và cứ tiến hành xây dựng trên đất của Nhà thờ Đức Mẹ Bạc Liêu thì buộc lòng tất cả giáo dân Tỉnh Bạc Liêu phải có biện pháp ngăn cản và kiên quyết bảo vệ bằng được nhà đất của Nhà thờ, vì đó là tài sản hợp pháp được xây dựng bằng mồ hôi và công sức lao động của toàn thể giáo dân Họ đạo Bạc Liêu cũng như toàn thể Giáo phận Cần Thơ; và vì đây cũng là nơi thờ tự cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của giáo dân Họ đạo Bạc Liêu đã quá tải.

Chúng tôi thiết tha kính mong Quý vị Lãnh đạo quan tâm xem xét và giải quyết.
Xin chân thành cám ơn Quý vị.

Chữ ký của các Linh mục Giáo Phận Cần Thơ (Từng vị Linh mục tự viết và ký tên mình. Tất cả trên 13 trang giấy khổ A4)

1- GIÁO HẠT CẦN THƠ
1- Lm Hoàng Đình Ninh, Nhà thờ Ô Môn
2- Lm Đỗ Kim Sơn, Nhà thờ Trường Thành
3- Lm Nguyễn Bá Long, Đại chủng viện Thánh Quý
4- Lm Nguyễn Hữu Cường, Đại chủng viện Thánh Quý
5- Lm Phạm Văn Chỉnh, Đại chủng viện Thánh Quý
6- Lm Nguyễn Hải Uyên, Nhà thờ Đông Lợi
7- Lm Nguyễn Hữu Tài, Nhà thờ Bình Thuỷ
8- Lm Lê Dương Tân, Nhà thờ Trường Long
9- Lm Huỳnh Ngọc Điệp, Toà Giám mục Cần Thơ
10- Lm Nguyễn Phước Trinh, Nhà thờ Cờ Đỏ
11- Lm Lê Văn Chương, Đại chủng viện Thánh Quý
12- Lm Nguyễn Ngọc Tỏ, Nhà thờ An Bình
13- Lm Nguyễn Phước Hội, Nhà thờ TGM Cần Thơ
14- Lm Trần Đình Nha, Nhà thờ Thới Lai
15- Lm Nguyễn Hải Bằng, Nhà thờ Cái Tắc
16- Lm Trương Điệu, Nhà thờ Bảy Ngân
17- Lm Huỳnh Văn Ngợi, Nhà thờ Thới Hoà
18- Lm Nguyễn Lê Nhật Minh, Nhà thờ Ô Môn
19- Lm Trần Minh Khanh, Nhà thờ Lộ 20
20- Lm Nguyễn Hoàng Khánh, Nhà thờ Cái Chanh
21- Lm Trịnh Minh Lễ, Nhà thờ Tham Tướng
22- Lm Phan Văn Triêm, Nhà thờ An Thạnh
23- Lm Võ Văn Bé, Nhà thờ An Hội
24- Lm Nguyễn Thành Tính, Nhà thờ Chánh toà
25- Lm Văn Công Phong, Nhà hưu dưỡng
26- Lm Lê Hoàng Thanh, Nhà thờ Thới Lai
27- Lm Lê Ngọc Bửu, Đại chủng viện Thánh Quý
28- Lm Dương Văn Quyền, Nhà thờ Bình Thuỷ
29- Lm Nguyễn Trung Trực, Nhà thờ Chánh toà
30- Lm Trần Minh Thái, Nhà thờ Thới Thạnh
31- Lm Nguyễn Phi Hùng, Nhà thờ Cờ Đỏ
32- Lm Nguyễn Tri Viễn, Tu viện Chúa Quan Phòng

2- GIÁO HẠT Vị THANH
33- Lm Vũ Văn Triết, Nhà thờ Vị Hưng
34- Lm Mai Thúc Hoà, Nhà thờ Vị Thanh
35- Lm Ngô Văn Nhơn, Nhà thờ Lương Hoà
36- Lm Nguyễn Văn Khuyến, Nhà thờ Vị Tín
37- Lm Nguyễn Văn Khảo, Nhà thờ Cái Nhum
38- Lm Huỳnh Phúc Hậu, Nhà thờ Lương Hoà
39- Lm Nguyễn Văn Tâm, Nhà thờ Vị Hưng
40- Lm Lê Văn Thanh Tùng, Nhà thờ Ấp 5
41- Lm Trần Cường Dũng Bá, Nhà thờ Vị Thanh
42- Lm Lê Văn Hội, Nhà thờ Vị Tín
43- Lm Hồng Anh Kiệt, Nhà thờ Vịnh Chèo
44- Lm Trần Công Thắng, Nhà thờ Tân Phú
45- Lm Nguyễn Văn Thọ, Nhà thờ Tôma
46- Lm Trương Thành Công, Nhà thờ Long Mỹ
47- Lm Phạm Văn Phán, Nhà thờ Tân Phú

3- GIÁO HẠT TRÀ LỒNG
48- Lm Nguyễn Thành Chất, Nhà thờ Trà Cú
49- Lm Nguyễn Văn Chính, Nhà thờ Trà Lồng
50- Lm Đặng Xuân Đồng, Nhà thờ Cái Trầu
51- Lm Nguyễn Đình Thịnh, Nhà thờ Mỹ Phước
52- Lm Võ Văn Thành, Nhà thờ Tân Lập
53- Lm Nguyễn Văn Đầy, Nhà thờ Bô-Na
54- Lm Nguyễn Văn Huỳnh, Nhà thờ Tân Lập
55- Lm Lê Ngọc Bích, Nhà thờ Trà Lồng
56- Lm Bùi Chí Cường, Nhà thờ Trà Cú
57- Lm Nguyễn Thanh Khiết, Nhà thờ Fatima
58- Lm Lê Văn Trọn, Nhà thờ Trà Lồng
59- Lm Đinh Văn Chuân, Nhà thờ Kinh Đức Bà
60- Lm Lê Đình Hội, Nhà thờ Tân Thành
61- Lm Vũ Đình Thuần, Nhà thờ Bô-Na
62- Lm Đặng Hữu Kha, Nhà thờ Trà Lồng
63- Lm Nguyễn Vĩnh Phan, Nhà thờ Mỹ Phước
64- Lm Nguyễn Văn Thương, Nhà thờ Tân Lập
65- Lm Nguyễn Khắc Minh, Nhà thờ Kinh Đức Bà

4- GIÁO HẠT ĐẠI HẢI
66- Lm Võ Văn Nam, Nhà thờ Đại Hải
67- Lm Đỗ Hoàng Thọ, Nhà thờ Thiết An
68- Lm Võ Hoàng Túc, Nhà thờ Đại Hải
69- Lm Nguyễn Thiện Tư, Nhà thờ Thái Hải
70- Lm Nguyễn Minh Văn, Nhà thờ Bắc Hải
71- Lm Lê Kim Thạch, Nhà thờ Phụng Hiệp
72- Lm Nguyễn Mạnh Đồng, Nhà thờ Trung Hải
73- Lm Phạm Hữu Ngọc, Nhà thờ Kim Phụng
74- Lm Phạm Thiên Trường, Nhà thờ Bắc Hải
75- Lm Nguyễn Công Lập, Nhà thờ Vinh Phát
76- Lm Phạm Ngọc Ngân, Nhà thờ Nam Hải
77- Lm Nguyễn Ngọc Ánh, Nhà thờ Phụng Tường
78- Lm Nguyễn Hoàng Liên, Nhà thờ Phụng Tường
79- Lm Châu Ngọc Phương, Nhà thờ Ba Trinh
80- Lm Trần Văn Khoản, Nhà thờ Xuân Hoà
81- Lm Nguyễn Xuân Mai, Nhà thờ Xuân Hoà

5- GIÁO HẠT SÓC TRĂNG
82- Lm Lê Văn Duyên, Nhà thờ Sóc Trăng
83- Lm Tống Văn Năm, Nhà thờ Sóc Trăng
84- Lm Nguyễn Văn Minh, Nhà thờ Sóc Trăng
85- Lm Trương Minh Tâm, Nhà thờ Sóc Trăng
86- Lm Trần Văn Liên, Nhà thờ Tân Thạnh
87- Lm Lý Thanh Việt, Nhà thờ Tân Thạnh
88- Lm Phạm Đức Tuân, Nhà thờ Ngăn Rô
89- Lm Võ Văn Việt, Nhà thờ Micae
90- Lm Nguyễn Đình Hùng, Nhà thờ Micae
91- Lm Nguyễn Văn Sang, Nhà thờ Bãi Giá
92- Lm Lê Phước Dũng, Nhà thờ Bãi Giá
93- Lm Nguyễn Văn Điều, Nhà thờ Rạch Tráng
94- Lm Ngô Thanh Bính, Nhà thờ Hoà Ninh
95- Lm Nguyễn Quang Toàn, Nhà thờ Hoà Thượng
96- Lm Huỳnh Hồng Phúc, Nhà thờ Hoà Lý
97- Lm Nguyễn Hoàng Vũ, Nhà thờ Chàng Ré
98- Lm Nguyễn Văn Cảnh, Nhà thờ Chàng Ré
99- Lm Trần Đình Phượng, Nhà thờ Sa Keo
100- Lm Nguyễn Văn Lanh, Nhà thờ Sa Keo

6- GIÁO HẠT BẠC LIÊU
101- Lm Nguyễn Tấn Lợi, Nhà thờ Bạc Liêu
102- Lm Nguyễn Văn Siêng, Nhà thờ Bạc Liêu
103- Lm Trần Bình Trọng, Nhà thờ Bạc Liêu
104- Lm Phan Văn Ngộ, Nhà thờ Đất Sét
105- Lm Nguyễn Phước Hậu, Nhà thờ Vĩnh Hiệp,
106- Lm Võ Văn Hoài, Nhà thờ Tắc Sậy
107- Lm Nguyễn Việt Hồng, Nhà thờ Tắc Sậy
108- Lm Trần Minh Phước, Nhà thờ Nàng Rền
109- Lm Nguyễn Khắc Đệ, Nhà thờ Khúc Tréo
110- Lm Trần Đức Hùng, Nhà thờ Tắc Sậy
111- Lm Nguyễn Thanh Bình, Nhà thờ Vĩnh Mỹ
112- Lm Nguyễn Phú Cường, Nhà thờ Vĩnh Mỹ
113- Lm Nguyễn Văn Chánh, Nhà thờ Bến Bàu,
114- Lm Nguyễn Văn Lợi, Nhà thờ Vĩnh Hiệp

7- GIÁO HẠT CÀ MAU
115- Lm Lê Hiến, Nhà thờ Hoà Thành
116- Lm Nguyễn Văn Vinh, Nhà thờ Quản Long
117- Lm Vũ Quang Nam, Nhà thờ Tắc Vân
118- Lm Huỳnh Văn Sơn, Nhà thờ Quản Long
119- Lm Nguyễn Văn Nam, Nhà thờ Tân Lộc
120- Lm Phạm Văn Tụ, Nhà thờ Hoà Thành
121- Lm Phạm Hữu Trí, Nhà thờ Huyện Sử
122- Lm Nguyễn Hoàng Hôn, Nhà thờ Ao Kho
123- Lm Nguyễn Văn Lâm, Nhà thờ Huyện Sử
124- Lm Nguyễn Văn Thục, Nhà thờ Cái Cấm

nguon RFA
______


Phỏng vấn người dân Bình Thuận đang chờ đợi tại sân banh Mỹ Đình để khiếu kiện
Một người dân kể lại những gian nan khi đi khiếu kiện vì bị tịch thu đất đai
Hàng trăm nông dân Hưng Yên kéo về Hà Nội biểu tình đòi đất
Công an tỉnh Long An bị tố cáo hành hung và hiếp đáp dân thường
Có dấu hiệu một vụ án oan
Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc Tế lên án việc tra tấn các nạn nhân ở Bắc Giang
Cái chết không bình thường của Hòa thượng Thích Ðức Chính
Phỏng vấn ông Phạm Mạnh Hùng, nạn nhân của vụ xử tù oan ở Bắc Giang
Cán bộ địa phương bán đất bừa bải như bán cá, bán rau
Hơn 300 gia đình ở Ninh Bình khiếu kiện chính quyền cưỡng chế và thu hồi đất
Người dân Thủ Thiêm khiếu kiện chính quyền cưỡng chiếm nhà đất
Người dân Bến Tre sẽ tiếp tục biểu tình nếu yêu sách không được giải quyết
Nghị định mới: phải xin phép nếu tụ tập hơn 5 người
Nhiều cơ quan tố tụng ở Việt Nam phải xin lỗi vì những vụ xử oan người vô tội